Vndichlyhoi’s Weblog

Âm Dương Trí Tri Ý Luận

Posted in Uncategorized by vndichlyhoi on December 12, 2010


Âm Dương Trí Tri Ý Luận

( Quảng Diễn các Bài Giảng cuả DLS Xuân Phong và Cao Thanh )

Là con người ở bất kể chủng tộc, mầu da, thời đại, địa lục ai ai cũng nhận thức rằng từ trong cái Não bộ cụ thể có một cái thực thể tồn tại vô hình gọi là Lý Trí, hoạt động của nó là luôn luôn vận dụng mọi giác quan để quan sát, thắc mắc, phân biện, suy tư về những khách thể đang sống động chung quanh nó .

Cái Lý trí siêu tuyệt này luôn luôn thắc mắc và đòi hỏi tự thân mỗi con người tuỳ tư chất, tư năng cơ cấu đã hóa thành tìm mọi cách lý giải những thắc mắc của mình sao cho hữu lý . Mọi lý giải hữu lý đều được coi là những Hoá thành Thành quả cụ thể của Kho tàng Kiến thức Nhân loại sau khi chính những kiến thức này tự gạn lọc để tồn tại hoặc đào thải theo Lý tính tự nhiên Giống Mà Hơi Khác ( GMHK) mà thành ra những chính lý phổ cập trong thời đại , giai đoạn tiến hoá của Nhân loại .

Trong cái Kho tàng Kiến thức khổng lồ này cuả Nhân loại Vấn đề tồn tại lớn nhất là Chân Lý và rồi cứ cái này là Chân lý làm đổ ngã cái Chân lý kia ; nhưng con người không hề mất nỗ lực truy tìm một cái Chính Lý cuả Chân Lý , Lý trí con người vẫn luôn tìm mọi cách để Lý giải đến tận cùng kỳ lý của Lý trí mon men tới được ; bởi vì nó chỉ chấp cái hữu lý , cái chính , cái chân lý vô tư công bằng đúng ở mọi nơi mọi lúc .

Người học Dịch Lý Việt Nam tuân thủ Đức Vô tư khách quan , Tính công minh công bằng của Chân lý ấy , và do nhu cầu của Lý Trí đòi hỏi sự công bằng ấy phải đúng cho tất cả muôn loài Vạn vật, muôn ngàn Sự Vật Sự Việc ( Sự Lý) kể cả cho Cái Tôi – Con Người, thế nên việc thắc mắc cho chính cái Lý Trí kề cận nhất gần nhất của Cái Tôi – Con Người cũng phải được chính Lý Trí của nó Lý giải , đó là lý do tiền nhân thường khuyến cáo : DỊCH LÀ GẦN giúp Lý Trí nhận biết Lý Dịch.

Lý Trí là Cội nguồn của Âm Dương Trí Tri Ý Thức

Trong sâu xa của Lý trí , lộ trình của nó từ Hiểu biết chuyển hoá để Biết hiểu, Biết Không Hiểu và ngược lại là lộ trình siêu hiển hiển siêu là siêu nhiên lộ Vô hữu Hữu vô qua lại nhanh vô cùng để bề dầy của nó nhờ Đức Manh Nha nhiệm nhặt liên lĩ Cực ( Manh Vi ) mà Tánh Hiểu biết và Không Hiểu Biết của nó phát triển không ngừng nghỉ, là nền tảng cho Trí Tri Ý Thức biến hoá hoá thành mãi mãi lập tức tức thời , kỳ diệu, không giới hạn .

Cái Tánh Biết và Không Biết của Lý Trí chính là Âm dương động lực thúc đẩy tiến bộ để luôn luôn có một Bộ mặt Mới Giống Mà Hơi Khác (GMHK) với Bộ Mặt Cũ của nó ,

Biết Biết ( biết mình biết) Biết không Biết ( biết mình không biết) lại là một biến hoá Giống Mà Hơi Khác nữa nhiệm nhặt hơn của Tánh Biết .

Nhưng Biết cái gì và Biết ra sao là Sản phẩm Hoá thành của Tánh Biết và Không Biết , là cái Tánh Biết đã Biết Hoá ra cái gì và Biết Trở nên như thế nào ?

Theo dõi những Lý lẽ và Đức Tính trên của Lý Trí là chúng ta tìm được Cội nguồn của mọi Trí Tri Nhân loại Vạn vật và về đến bến bờ của Âm Dương Trí Tri Ý Thức.

Tiên Hậu Thiên Trí Tri Ý Thức

Học Thuyết Tiên Hậu Thiên Trí Tri Ý Thức là nền tảng của Dịch Lý Việt Nam , là kết quả Hoá Thành kinh qua Hoạt động của Lý Trí Tánh , là Thành quả của Âm Dương Lý Trí Tánh Tương động Tương Giao Tương Cảm Tương Sinh mà Biến Hoá Hoá Thành làm mẫu mực xây dựng và tái tạo kiến thức Âm Dương Âu Lạc Tiên Rồng ngàn xưa .

1. Lý Trí Tánh khám phá Yếu Lý Đồng Nhi Dị

Theo dõi Trí tri , theo dõi sự xuất hiện cái Biết và Không Biết của Trí tri , so sánh giữa cái Biết Mới và Cái Biết Cũ tất cả đều chỉ có chỗ GIỐNG MÀ HƠI HƠI KHÁC hay HƠI KHÁC ( Đồng ) hoặc QUÁ KHÁC ( Dị ) ; những Cái Biết này Đồng Đồng Dị Dị tinh tế nhiệm nhặt , ngay cả Hiểu cũng Giống Mà Hơi Khác Biết vì thế sự phân biệt rất dễ lầm lẫn nếu không xét tình lý ấy trong một phạm vị nào đó .

Ví dụ nếu chỉ xét Đồng Nhi Dị trong phạm vi của Ý một Hoá thành của Lý Trí Tánh ta thấy sự Giống mà Hơi Khác như sau :

Trí Tri Ý Cơ Cấu khi giao du với Các Sự Lý ( Sự Vật Sự Việc ) đi lại thu phóng cực nhanh đến nhiều Phạm vi của Sự Lý trong cùng thời lúc đến nỗi chúng ta có thể trở thành nói năng lẫn lộn phạm vi này qua phạm vi kia, nói lấp bấp vì không kịp thu phóng hoặc lạc đề đáng tiếc để không ai hiểu mình nói gì !

Vì thế người học Dịch Lý VN cần nắm vững Yếu Lý Đồng Nhi Dị ( ĐND ) và phân biện Phạm vi Tình Lý nghĩa là Thu Ý và Phóng Ý đúng Thời Lúc, chính xác trong Phạm vi của Sự Lý đang động tĩnh để Biết cái Biết và Biết cái Không Biết ngõ hầu vô tư trung thật với chính mình với mọi người và muôn vật .

Cũng từ Yếu Lý Đồng Nhi Dị Lý Trí còn khám phá được Trí Trí Ý lúc thì bình thường từ Giác quan Trí óc lúc thì Linh động khác thường từ tiềm thức, linh tính, phản xạ vượt ra ngoài khả năng kiểm soát của Giác quan, lúc thì Hiển hiện lúc thì ẩn tàng ta gọi là Âm Dương Trí Tri Ý ; cùng một cái Trí Tri mà cùng lúc lại có hai Giống mà Hơi Khác vậy :

ĐỒNG NHI DỊ LÀ ÂM DƯƠNG LÝ GIỐNG MÀ HƠI KHÁC

Ý thức được khả năng Âm Dương Trí Tri Ý của Lý Trí Tánh, Cái Tôi – Con Người biết xử dụng chính nó làm Gậy Thần Sách Ước cho chính Lý Trí mình làm khí cụ cho Tính Biết Trở Nên Biết Hoá thành dồi mài Trí Tri Ý Thông thường làm chỗ nương tựa cho Trí Tri Ý Khác Thường trở nên Linh hoạt hơn đó là biết vận dụng Âm Dương không thể phân cách tách biệt , đó là nghệ thuật làm nẩy sinh Hoá Sinh ra Thần thức và Đức Thần Minh cho chính Lý Trí của mình.

2. Những khám phá của Lý Trí Tánh nhờ Đồng Nhi Dị

  • · Luật Biến Hoá : Cái Tôi – Con người, ngắm nhìn Vạn vật quanh mình nó nhận thức ngay rằng Vạn vật ấy cũng như mình là một trong muôn vàn Hoá thành trong Vũ Trụ Giống Mà Hơi Khác với nó cũng sống chết, buồn vui , sinh sinh diệt diệt, đồng thời cũng thấy trong nó như một Tiểu Vũ trụ động tĩnh Giống Mà Hơi Khác với Vũ Trụ hiện hữu ; Cái Tôi ấy còn ghi được đường đi của Trí tri Ý luôn tiêu trưởng, ẩn hiện , luôn biến đổi biến động lúc sáng lúc tối trí, lúc nhanh như thần lúc ù lì chậm chạp và với Tánh Hiểu Biết , Biết Hiểu và Biết Không Hiểu ta có :
  • · Và Yếu Lý được khám phá :

Thì ra bất kể là Người, Vật hay Việc gì kể cà Vô Hình như Trí tri cho đến Hữu hình ô dề cục mịch dễ thấy, đều Biến Động, Biến Đổi và Biến Hoá Hoá Thành theo một Lý lẽ duy nhất là GMHK với chính nó .

Từ đó Luật Biến Hóa được phát biểu :

Ngay trong lúc Biến Động , Biến Đổi , Biến Hoá thì Mọi Hoá Thành chúng đều có những Lý lẽ Nội Hàm cùng lúc chung cùng lập tức tức thời như sau :

  • · Có Tương Đông Tương Giao Tương Cảm Tương Sinh: Vì Uyên Nguyên cuả Biến Hoá là GMHK, là „ Cú Hích „ để Vận Động , là Luật Cấu Tạo Hoá Thành Vũ Trụ nên không thể còn Cái KHTK được nữa vì nó đã Động Biến GMHK thành Cái Mới KHTK Cực nghiã là nó đã Động Giao Cảm để Hoá Sinh KHTK CỰC còn gọi là THÁI CỰC là Hoá Thành mẫu mực của mọi Hoá Thành sau này và đời đời mãi mãi GMHK như thế .
  • · Có Đạo Lý Cực: Không tiến tới Cực thì không có Cái Mới ; Miên man trong chuỗi Biến hoá GMHK vô cùng tận của Vũ Trụ, Lý Trí Tánh lại khám phá rằng cứ mỗi lần Biến hoá chuyển sang Bộ Mặt Mới thì những điểm khởi đầu chuyển hoá Cực nhanh Cực nhỏ , tạo một Chuỗi Cực liên lỉ liên tục phủ trùm mọi chiều kích bất kể Không Thời Gian, tại đó những Điểm uốn lập tức tức thời ấy gọi là CỰC GIAI ĐOẠN để GMHK với Bộ Mặt Cũ trước khi hình thành Bộ Mặt Mới, danh gọi là Manh Nha hay Manh Vi , Đây cũng là Đạo Cực , Đạo Hoá Sinh Sinh Sát của muôn loài :

 

  • · Có Lý Lẽ Khởi Dứt: Do Đạo Cực ấy mà mọi Hoá Thành buộc phải liên lỉ liên tục để tuân thủ Luật Biến Hoá để Hoá Thành hoá ra , cái này Khởi thì cái kia Dứt vạn vật cứ thế trầm luân, cái trước cái sau khai mở theo Biến Hoá Luật đó là Tài năng siêu tuyệt cuả Tạo Hoá chỉ có Nhất Luật Biến Hoá Nhất Lý Đồng Nhi Dị mà Tạo dựng ra Muôn vật Vô Hữu Hữu Vô .
  • · Có Tuần Tự Trật Tự: Đã Là Một Cái Thành ra thì phải có Cái Trước nó đã Cực biến ra nó và phải sẽ có cái Sau nó để nó cũng phải tuân thủ Lý Lẽ Cực ấy và cứ thế Tuần Tự Trật Tự thành một Chuỗi Hoá Thành GMHK với các Chuỗi Hoá Thành Khác.
  • · Có Lý Lẽ Sinh Khắc: Khi Hoá Thành đã Tương Động Tương Giao thì không thể không Tương Cảm nghiã là biết Yêu ghét, biết hút đẩy , biết cho nhận biết giận thương, biết yên bình giận dữ , biết sáng tối, …đó lá AD Tình Ý Vũ trụ .

Bởi vì khi đã Hoá Thành thì đã là một Chủ thể hiện hữu so với các Khách thể Hoá thành khác và ta chì có các trường hợp :

– Khách thể đã hỗ sinh Chủ thể

– Chủ thể hỗ sinh  Khách thể mới gmhk.

– Khách thể gmhk khắc chống Chủ thể.

– Chủ thể khắc chống lại Khách thể .

Như vậy 4 Đối tượng ( Tứ tượng) vừa liên hệ Vận hành Sinh Khắc nêu trên kể cả Chủ thể nữa là 5 gọi là NGŨ HÀNH hay NGŨ THẦN là những Bộ Mặt của một Hóa Thành , của một Hiện hữu khi Động Giao Cảm mà AD TÌNH LÝ TÌNH Ý hoá sinh hoá thành .

 

3. Lý Trí Tánh Truy Nguyên

Sau khi khám phá Nhất Lý Nhất Luật , Lý Trí Tánh tiếp tục Truy nguyên về Cái Hoá Thành , Cái nào là Cái Thành đầu tiên khi Vũ Trụ có Nhất Luật Nhất Lý như nhiên tự nhiên ấy.

Có Biến hoá là có Tạo Hóa , có Trời Đất bởi vì Không Biến hoá thì chẳng có cái gì cả là cái Không, cái KHÔNG HOÀN TOÀN KHÔNG ( KHTK ) thì không có Đồng Nhi Dị , không có Vũ Trụ, không có muôn loài , vậy là Hư Vô .

Thế nhưng khi Lý Trí Tánh vừa nhận thức cái Hư Vô ấy thì lập tức tức thì Trí Tri đã nhận ra là đã CÓ CÁI KHÔNG rồi không thể nào trở về lại được Cái KHTK nữa ; cho dù cứ tưởng tượng ngàn lần về cái KHTK thì cũng là đã có Cái Không rồi ! Vậy là Lý Trí Tánh buộc phải chấm dứt Truy Nguyên; không còn cái gì trước KHTK nữa ; KHTK là không còn cái Lý Trí Tánh Hiểu Biết , Biết Hiểu nữa thì lấy gì để Truy Nguyên !

Cái Tôi liên tục trầm mặc , lý luận , biện minh cho cái Hiện Hữu của KHTK mờ mịt này …nhưng chính cái Lý Trí Tánh đã dứt khoát chỉ ra rằng KHTK không còn nữa nó đã Biến Hoá Hoá thành muôn vật , nó đã là Cơ Nghiệp đầy dẫy của Tạo Hóa , nó đã CỰC để thành KHTK Cực tức đã Hoá thành VÔ CỰC rồi nghiã là nó đã theo Lý lẽ Cực , đã trở thành GMHK với KHTK rồi .

nói cách khác KHTK Cực là KHTK được và bị Lý Trí Tánh Tôi-Con Người đã mon mem tới , được và bị nhận biết Tính Manh nha GMHK đã Hoá Thành KHTKCỰC, thành VÔ CỰC rồi .

Lý Lẽ Một mà Ba:

Một lần nữa Lý Trí Tánh xác định Yếu Lý ĐND GMHK trong cái Hoá Thành Vô Cực ; Vô Cực là một cái đã Hoá Thành : CÁI MỘT đã và chỉ có nghiã khi Cái Thứ 2 KHTK mà nó vừa mon men đến có Cái Manh Nha là Cái Thứ 3 ban nghiã lý cho nó để Hiện hình đáp ứng nhu cầu cho Lý Trí Tánh . Từ đó xác định :

  • · KHTK xứng là ÂM ẩn tàng là Bộ Mặt Cũ
  • · KHTK Manh Nha hay Manh Vi xứng là Dương GMHK hiển lộ ra .
  • · KHTK Cực là Cái Vô Cực đã thành ôm ấp Âm Dương GMHK không thể tách rời của Bộ Mặt Cũ KHTK so với Vô Cực là Bộ Mặt Mới ( BMM ).

 

Danh Lý ÂM DƯƠNG

 

Vậy Danh Lý ÂM DƯƠNG được hình thành và có nghĩa theo Lý lẽ Một Mà Ba này .

– AD là Giống Mà Hơi Khác hay Khác Mà Hơi Giống.

– Không có Âm Hoàn Toàn Âm hay Dương Hoàn Toàn Dương .

– Có AD là có Giao Hoán Động Tỉnh Cảm Sinh .

– AD là Đồng Dị ,Dị Đồng, Nơi nào có ĐỒNG DỊ là có Âm Dương .

– Đồng đâu thì Dị đó, Dị đâu thì Đồng đó.

– Đại Đồng thì Đại Dị , Tiểu Đồng thì Tiểu Dị.

– Đại Đồng có Tiểu Dị, Đại Dị thì có Tiểu Đồng

– AD tuy Hai mà là Một để bổ nghiã cho nhau , cung cầu san sẻ hấp dẫn lẫn nhau cùng lúc chung cùng, Âm đâu thì Dương đó , Dương đâu thì Âm đó .

– Âm trưởng Dương tiêu, Duơng trưởng thì Âm tiêu.

– Âm ẩn thì Dương hiện, Dương ẩn thì Âm hiên

 

4. Lý Trí Tánh Hoàn Nguyên

 

Lý Trí Tánh không dừng lại sau khi đã Truy nguyên nghiã là sau khi đã mon men về đến Tiên Thiên Trí Tri Ý ; nó tiếp tục trở về Truy nã Hậu Thiên tức Hoàn nguyên, tiếp tục mổ xẻ các chuỗi Hoá thành khởi từ Hậu Thiên Vô Cực để theo dõi sự Tưởng Giao,Tương Cảm , Tương Động , Tương Sinh của Âm Dương đang Động tĩnh trong muôn loài Vạn Vật Hiện Hữu.

Lý Trí Tánh của Tiền Nhân , Cái Tôi – Con Người Tiền Nhân đặt tên cái Danh Vô Cực , Thái Cực cho Tượng Hình trong Thái Cực Đồ Vô Tự mà Tổ tiên để lại cũng cho thấy Lý Trí Tánh của các ngài đã Truy Nguyên về đến KHTK và nhận biết KHTK Cực , nhận biết Đạo Cực .

Như vậy :

Sự thật đây chỉ là một gượng ép để phân tích diễn tả một Chỉnh thể bất khả phân nội tại AD của Sự Lý nếu không cảm nhận được sự Tương Động Tương Giao Tương Cảm Tương Sinh GMHK đang liên lỉ Biến Động Biến Đổi Biến Hoá lập tức tức thời trong mỗi Nội tại ấy .

Mặc dù sự Phân tích là gượng ép nhưng là chính lý vì tuân thủ AD ĐND và giúp người học hãnh tiến do đó chúng ta cần diễn giải những Biến Hoá Hoá Thành neo được Ý Lý Âm Dương ĐND .

Trải qua bao nhiêu thời đại Dịch Lý chỉ được phổ biến những giá trị thực dụng, những kết quả hấp dẫn khi ứng dụng Dịch Lý . Điều đáng tiếc là Nguồn gốc Lý thuyết đã bị phai mờ hay bị lờ đi bằng những Huyền Thoại Mu Ruà Long Mã .

DLVN khai phá rất rõ ràng phần Truy Nguyên tức Tiên Thiên Trí Tri Ý làm cơ bản cho Phần Lý Giải Hậu Thiên Trí Tri Ý tức Hoàn Nguyên mà không làm lạc Ý lạc Lý mà còn Khoa học hóa Luận Lý Tinh Hoa Di sản của Tiền Nhân . Di Sản về Vạch Hào được coi là hữu hiệu nhất để mô tả Lý Biến Hoá Hoá Thành : LÝ THÀNH

DLVN xử dụng Học Thuyết TIÊN HẬU THIÊN TRÍ TRI Ý THỨC khai mở HẬU THIÊN TRÍ TRI Ý như sau :

5. Tiên Thiên Lý Thuyết khai dụng

Mọi Hậu thiên Hoá thành đều phải đáp ứng 3 điều kiện Tiên Thiên

  • · Thoả mãn Yếu Lý Đồng Nhi Dị : một mà có 2 nhưng lại là 3 tự ban nghiã cho nhau .
  • · Thoả mãn Lẽ Khỏi Dứt: Khởi Vô Dứt Hữu, Khởi Âm Dứt Dương (Â trước D sau ), Gốc dưới Ngọn trên . ( mầu đỏ hình bên dưới)
  • · Thoả mãn Lẽ Cực, Đạo Cực để chuyển thành cái Mới GMHK .

 

6. Tiên Thiên Trí Tri Ý lý giải Hậu Thiên Trí Tri Ý

7. Vận Hành Đệ Nhiên Sinh

Hoá Thành ra cái này cái nọ cái kia ra muôn hình vạn trạng , mà không có Sinh khí thì chỉ là những lầm tưởng khi chúng ta vô tình tách rời Tính lý tình ý của chúng ra khỏi Thể trạng của chúng ; do đó DLVN có cụm từ « CÙNG LÚC CHUNG CÙNG » và « LẬP TỨC TỨC THỜI » là để diễn tả tính bất khả phân và bất chấp không thời gian của Âm Dương Vận Hành trong khi bất đắc dĩ phân chia một AD Sống Động bằng 2 vạch Đứt và Liền .

Do vậy từ khi AD hình hoá hoá hình ra ra Bát Quái với 64 AD Tình Lý cho đến khi là một Thực Thể Hiện hữu thì tất cả những Tính Lý Tình Ý ấy đã cùng lúc chung cùng lập tức tức thời Vận Hành trong chúng ; nói khác đi AD Bát Quái đã có sẵn trong mình AD Ngũ hành để Vận động Hoá Sinh Sinh Hoá gọi là Đệ Nhiên Sinh Hoá Đệ Nhiên Sinh Thành . Là Tính Lý Tình Ý của mọi CÁI NHIÊN trong Vũ Trụ từ thưở KHTK CỰC và mãi mãi đến muôn đời .

Lời kết

Tiểu luận được viết để ôn tập cho Học viên cũng là như một Bài Mẫu để bước vào trình độ Cao Đẳng DLVN Học viên sẽ phải diễn tả những nhận thức của mình tuy theo từng Vấn đề ngõ hầu Quảng diễn tư duy Dịch Lý của mình bằng những Tiểu Luận tương tự , đồng thời từ kiến thức tổng hợp tóm lược này mong mỏi Học Viên sẽ dễ dàng chuyển hoá thành những nhận thức có sắc thái riêng của mình hơn ; và nhất là khi sẽ học tới các Bài chi tiết trong nền Văn Minh Dịch Lý Việt Nam không gặp nhiều trở ngại về Căn bản .

Việt Nam Dịch Lý Hội

Phân Hội Đức

Hạnh Thanh

Lý Thuần Càn

DỊCH LÝ VIỆT NAM-THIÊN NHIÊN XÃ HỘI HỌC

Posted in Uncategorized by vndichlyhoi on October 21, 2008

THIÊN NHIÊN XÃ HỘI HỌC ĐẠI LƯỢC

ĐẠI LƯỢC

Thiên Nhiên Xã Hội Học là Bộ Sách dành cho Phân Khoa Thiên Nhiên Xã Hội , một trong 9 Phân khoa của Học Thuyết Tiên Hâu Thiên Trí Tri Ý Thức Việt Nam Dịch Lý Hội ; được Dịch Lý Sĩ Xuân Phong Nguyễn Văn Mì trước tác khẩu truyền và Cao Thanh đặc trách biên soạn . Mỗi đoạn, mỗi câu , mỗi chữ đều thâm sâu súc tích . Người viết chỉ lãnh hội được phần nào tinh hoa trong đó khi học tập và ghi chép lại ở đây như một Bút ký Tu Học ; do đó bài viết có tên là Đại lược và không thể gọi là Tập sách hướng dẫn cho Môn học này , mục đích của Bài viết chỉ như một giới thiệu sơ lược tóm tắt những ý lý khái lược quan trọng về Môn học uyên bác này. Học giả thiện tâm với Hồn thiêng Dân tộc xin tìm đến Hội Dịch Lý Việt Nam để tìm hiểu thêm.

THIÊN NHIÊN XÃ HỘI

Vũ trụ thiên nhiên muôn vật muôn vẻ muôn trùng , con người tưởng chừng như khó mà hiểu được cặn kẻ tính lý từng loại, con người thế tục mãi ngụp lặn trong tư kiến, định kiến .

Khoa học Tây phương và nhất là trong thời kỳ Phục hưng Thế Kỷ 18 từ sau Galileo đến nay , các Khoa Học Gia đã cố gắng nghiên cứu và đã có nhiều kết quả vưọt bậc trong việc phân loại , phân tích cơ cấu cho nhiều Ngành nhánh và môn học , Hoá Học Vô Hữn cơ , Thiên văn Học , Vũ Trụ Học , Điạ cầu Học , Vật Lý, Vật Lý Lượng Tử, Lượng Tử Học , Điên ,Điện Từ Học , Hình Học Euclide, Topo học, Không Gian Học, Bản Thể Học v.v…

Cùng lúc ấy đa số người ta lại bỏ quên Tâm linh , Đạo học và Triết Học về phiá sau , Nhân loại chỉ tập trung vào việc học tập , giảng dậy khoa học Vật chất Cơ khí, chế tác không ngừng nghỉ mọi phát minh nhằm phục vụ Vật chất cho con người bất kể lợi hại ,thiện ác .

Cuối cùng Văn minh Tinh Thần và Văn minh Vật chất vẫn bị và được coi là tách biệt không có được một sự Cân bằng thống nhất an lạc nào cho Nhân loại; đó là Nguyên nhân của Tại Họa và Chiến tranh do con ngưòi vọng động tự hủy diệt chính mình .

Mặc dù nhiều nhà Bác Học nổi danh đã khuyến cáo Nhân loại hãy dừng lại cơn đam mê Vật chất Vô Thần ;Quan niên Duy thức cũng như Quan niêm Công cụ của giới Khoa học Tây phương cũng chỉ là những thái quá bất cập của Âm dương Tri thức thiên lệch .

Nhưng Thiên nhiên Vũ trụ mãi mãi biến đổi biến động để mãi mãi vẫn là Thiên nhiên với nhiều bộ mặt giống mà hơi khác với Thiên nhiên ban đầu . Các nền Văn minh cực thịnh cho dù tới đâu rồi cũng phải tàn lụi trở về với Thiên nhiên Bộ mặt mới với sự Như nhiên biến đổi biến động của nó giống mà hơi khác với Thưở Tạo thiên lập địa .Đó là Thiên Nhiên Xã Hội khuôn mẫu của muôn loài .

THIÊN NHIÊN XÃ HỘI HỌC

Khoa Thiên Nhiên Xã Hội Học của Dịch Lý Việt Nam là một Khoa học nghiên cứu và luận giải các sâu kín lặng lẽ ẩn tàng nội tại các tổ chức đời sống của Muôn loài Vạn vật trong đó có Con người . Tất cả đếu Động Tĩnh như nhiên hoặc cố nhiên , đều quây quần hội tụ va chạm và hấp dân lẫn nhau , đều có tiêu trưởng , sinh diệt, xung khắc đối đãi nhau , tất cả tạo dựng lên bối cảnh thực tế đa dạng và phong phú trong Thiên Nhiên Xã Hội .

Khoa Thiên Nhiên Xã Hội Học cũng là một cửa ngõ giúp các học giả có cơ duyên tiếp cận với Dịch Lý Việt Nam , từ các kiến thức Xã hội hỗn mang tự thiết kế một Mô hình có trình tự lý giải cho kiến thức của mình và cũng từ đó trau dồi được Tiên Hậu Thiên Trí Tri Ý Thức nói khác đi là trau dồi được Lý Dịch của Dịch Lý Việt Nam làm cơ sở cho Tri Thức thăng hoa .

NỘI DUNG ĐẠI LƯỢC KHOA THIÊN NHIÊN XÃ HỘI HỌC

Thiên Nhiên Xã Hội Học lý giải lẽ Biến Động Biến Đổi Biến Hoá Hoá Thành trong phạm vi Hậu thiên Xã Hội; vì thế trong Phạm trù này cần xác định các Phạm vi trong khi dùng các Phương pháp, Định luật , Quy luật khảo sát ; Các Phạm vi theo Âm Dương Dịch Lý Việt Nam đưọc ấn định thành 12 Phạm vi Tình Lý như sau :

Phạm Vi Tình Lý

Trong Thiên nhiên Vạn hữu uyên nguyên đều có Động Tĩnh Biến đổi, Biến động Biến hoá thể hiện qua các Phạm Vi Tình Lý sau từ Vô thể đến Hữu hình :

Nguyên Lý Cơ Bản

Từ Nguyên Lý Cơ Bản trên tức Yếu Lý ĐỒNG NHI DỊ (Giống Mà Hơi Khác) ta có nhiều Khái niệm , Định Nghiã, Quy Luật , Định Luật… Riêng trong Phân Khoa Thiên Nhiên Xã Hội Học một số trong các hệ luận trên của Học Thuyết Tiên Hậu Thiên Trí Tri Ý Thức được dùng làm Phương pháp học tập như sau :.

Khái niệm Âm Dương

Không có Một Vô thể hay Hữu thể nào trong Vũ Trụ không Biến hoá nếu không Biến hóa Biến đổi Biến động thì không thể có Vũ Trụ Vô hữu ngày nay; vậy Biến hóa như thế nào? Nguyên Lý Cơ Bản cho ta thấy ngay : Tất cả đều Biến dịch theo Lý lẽ GIỐNG MÀ HƠI KHÁC , nghĩa là để có một Cái Mới thì một cái Manh nha Giống mà hơi khác với cái Cũ lập tức tức thời bất kể Không Gian Thời Gian hình thành trong nội tại Cái Cũ ; nếu gọi cái Cũ là ÂM thì cái Mới là DƯƠNG giống mà hơi khác với cái Cũ và ngược lại . Như vậy ta có những phát biểu cho Khái niện này :

Âm Dương chỉ là cái Danh để diễn tả Lý lẽ Giống Mà Hơi Khác trong một thể thống nhất bất kể ở một phạm trù hay phạm vi vô hữu nào .

Âm Dương là Giống Mà Hơi Khác manh nha nội tại mâu thuẫn tự hình thành.

Âm Dương cùng lúc chung cùng bất khả phân .

Âm Dương ban bố san sẻ ý nghiã cho nhau , được lý vì có nhau .

Âm Dương có Vận hành Động tĩnh , Tiêu trưởng, Khởi dứt , Tuần tự và Trật tự như nhiên nhiệm nhặt .

Dưới đây là một số Luật cơ bản trong Thiên Nhiên Xã HộI Học :

Quy Luật Biến Hóa

Âm Dương không ngừng nghỉ biến hoá san sẻ nghĩa lý cho nhau chúng có một trình tự tự nhiên như sau :

° Tương Động

° Tương Giao

° Tương Cảm

° Tương Sinh

Thiên Nhiên Xã Hội Học lý giảng những Tính Lý của Thiên Nhiên Âm Dương Vũ Trụ Vạn vật nghiã là khám phá những Cơ cấu Tổ chức của Xã Hội Thiên nhiên vì thế nó trở nên những khuân mẫu cho mọi Xã hội Tiên Hậu Thiên của Vạn hữu cũng như con người . Khám phá được cơ mật của Tạo Hóa Tiên thiên Xã hội thì há chẳng phải là mẫu mực cho Hậu thiên bông trái của Thiên nhiên sao. Âm dương Tiên Hậu lúc nào cũng ôm ấp nhau mang hình hài Giống mà hơi khác của nhau là vậy.

Luật Động Tĩnh

Không có Động Tĩnh tức không có Sự Sống , xét trong cả 12 Phạm vi Tình Lý không Phạm vi nào thoát khỏi Âm Dương Động Tĩnh , lúc ta cảm thấy ngu dốt châm chạp và cũng có lúc ta cảm thấy nhậy bén sâu sắc đó là Động Tình của Trí Tri .

Yếu Lý Đồng Nhi Dị giúp ta nhận thức được rằng Cùng một Trí tri ( Đồng) thế mà lại có rối trí, tối trí, sáng trí …(Dị) ; Vì thế nhờ nắm bắt được Động Tĩnh , hiểu rõ trong Tĩnh là đang có Manh nha Động ; trong Động là đang có Manh Nha Tĩnh con người có thể nhìn nhận ra được Sự Suy Vượng của đối tượng cần khảo sát, của Xã Hội đang diễn biến thịnh suy .

Luật Vận Hành

Âm Dương Vận Hành nghĩa là Âm Dương giao hoán cọ sát cùng một lúc vừa Động vừa Giao vừa Cảm vừa Sinh hoá nghiã là chúng thực hiễn Yếu lý Đồng Nhi Di một cách nhiệm nhặt tuần tự và trật tự .

Trong Thiên Nhiên Xã Hội sự Vận hành này có thể diễn tả nhờ Giai đoạn Trung gian Tứ tượng của Âm Dương giao hoán trước khi Biến hoá hóa thành Bát quái ; Bát quái là 8 thực thể mang trọn vẹn nghĩa lý hoá thành hoàn chỉnh của Lý lẽ Đồng Nhi Dị ; nên nhớ khởi từ Âm dương giao hoán cho tới khi Hoá thành Bát Quái sự biến hoá biến đổi biến đông là lấp tức tức thời là nhanh vô cùng nhanh , không gian thời gian mà chúng ta có thể tưởng tượng còn là chậm rất nhiều so với Sự Hoá thành ra Bát Quái. Điều này muốn nói 1 là 8 , là 4, là 3, là 2 và cũng là 1giống mà hơi khác cùng lúc chung cùng .

Luật Sinh Khắc

Vì vậy tạm thời chúng ta phải miễn cưỡng tách giai đoạn ( biến hóa thần tốc không thời gian) để nhận ra rằng Âm Dương Đồng Nhi Dị trong giai đoan không thời gian ấy đã giao hoán biến động đối đãi nhau sinh khắc nhau tạo một Lý Lẽ Sinh Khác như sau :

Mọi hiện hữu đều mang trong tự thân nó lý lẽ sau :

·Được và bị Sinh ra. ( Sinh nhập )

·Tạo ra sinh sản ra cái giống mà hơi khác với mình ( Sinh Xuất )

·Được và bị áp chế ( Khắc nhập )

·Áp chế cái giống và hơi khác với mình ( Khắc Xuất )

Từ đây Khái niệm Ngũ Hành được hiện diện trong lúc Hoá Sinh .

NguHanh3

Danh Kim Mộc Thuỷ Hỏa Thổ thường dùng chỉ là một trường hợp Sinh khắc trong Vạn hữu của Lý Dịch Việt Nam ; ở đây cần được Vô tư định danh theo chính lý Âm Dương Sinh khắc không nên câu chấp , mới có thể thấu tường Lý lẽ Âm dương Đồng Nhi Dị.

và Biến thông được Chính Lý .

Luật Khởi Dứt

Bát Quái như đã nói trên là những Đơn tượng viên mãn Hoá thành đại diện cho TÍNH LÝ cuả một Hiện hữu , những Hoá thành này là những Đơn vị hội đủ Lý Âm dương Đồng Nhi Dị 1 mà 2 mà là 3 là 4 mà lại là 8 và chúng có đủ tư cách là một Thực Thể .

Bát Quái là 1 mà 2 vì trong nó mang trong mình ý nghiã Âm Dương

Bát quái là 1 mà 3 là vì muốn chứng tỏ nó là một Thực có 2 tính Âm dương không thể tách rời luôn ẩn hiện trong nó.

Bát Quái là 1 mà 4 vì trong nó không thể thiếu Tình Lý Sinh Khắc sẵn sàng đối đải với một Thực thể khác kể cả chính nó.

Bát Quái là 1 mà 8 vì trong chính nó cũng chỉ là Giống mà hơi khác với Quái khác nó được Tuần tự và Trật tự hoá thành từ Khởi tới Dứt từ Hư đến Như chu kỳ cứ thế tiêp diễn với Bộ mặt mới Giống mà hơi khác Bộ mặt Cũ.

Hình diễn biến nhiệm nhặt chuyển hoá từ Hư (không) đến Như (có).

Luật Tiêu Trưởng

Từ lúc Bát Quái là những đơn tượng viên mãn đại diện cho TÍNH LÝ ( Argument)cuả một Hiện hữu( Sein) đủ tư cách là một Thực Thể (Dasein), đủ tư cách mang Lý Tính như nhiên của mình giao hoán lẫn nhau tạo ra 64 TÌNH LÝ ; chúng ta thường gọi là 64 Tượng kép, là toàn bộ các tình ý ( Sinn) của muôn vật , là khuôn mẫu được thể hiện giống mà hơi khác qua 64 Bộ Mặt tiêu biểu .

Trong 64 tượng ý lý tình này bao hàm mọi tình tiết âm dương , sinh khắc đối đãi , giao dịch thăng giáng , một chuỗi trong tình ý này cho thấy luật Âm dương Tiêu trưởng:

Trong Thiên Nhiên Xã Hội , trùng trùng Tình lý , giầu nghèo, no đói, thiện ác , sáng tối , qủy thần, tốt xấu …nhưng thực ra cũng chỉ quanh quẩn trong Âm Dương Tính Lý , trong 64 Tình Lý thăng giáng tiêu trưởng , giầu là nghèo ít , sáng là ít tối …thiện ít ác nhiều là ác, ác ít thiện nhiều là thiện , vậy thiện ác, giầu ngheo, sáng tốt cùng lúc chung cùng để ban cho nhau ý nghiã mà thôi .

Những Quy ước được lý trong Thiên Nhiên Xã Hội

Những Quy ước này được các Bậc huệ trí sáng tạo xứng danh để chúng ta khai triển mở mang kiến thức và khai dụng trong Thiên Nhiên Xã Hội Học nhờ diễn dịch Chính lý với Nguyên Lý Đồng Nhi Dị .

Quy Ước Ngũ Thần

Trong giai đoạn Âm Dương Giao dịch từ Khởi đến Dứt , Luật Sinh Khắc Tứ tượng Vận hành buộc Âm Dương Lưỡng nghi phải đối đãi nhau theo Nguyên Lý Đồng Nhi Dị Giống mà Hơi khác tạo 4 mối Giao dịch , 4 Tính lý Sinh Khắc tàng chưá trong mỗi Hiện thực khiến mỗi một hiên thực lúc nào cũng có những Ái Nộ Lực quây quần yêu ghét , sinh hóa, quân bình lẫn nhau tạo thành Ngũ Thần .

Ngũ Thần đại diện cho Tính Yêu Ghét, cho Tinh Thần Yêu ghét này gọi tắt là Thần , chúng cùng lúc chung cùng mạnh yếu nặng nhẹ thể hiện khi Giao tiếp gồm có:

·Dụng Thần .

·Nguyên Thần

·Tiết Thần

·Cừu Thần

·Kỵ Thần

với những Khái niệm sau :

Đại diện chính cho Cá Nhân Hành động , cho Sự biến hay Sự cố là Dụng Thần

Phát Sinh ra , làm lợi cho Dụng Thần gọi là Nguyên Thần

Làm hại , khắc chế Dụng Thần gọi là Kỵ Thần

Cái , kẻ mà Dụng Thần Phải hao tốn , phải phát sinh gọi là Tiết Thần

Cái ,Kẻ mà Dụng Thần phải chống trả, phải phản công tấn kích gọi là Cừu Thần.

Mô hình trên chỉ diễn tả được phấn nào ý nghiã những Tương quan hệ lụy trong việc quân bình sinh hoá của các Thần , tự thân các Thần đều là những ý thức sinh tồn và tiến hoá , không tốt không xấu không Thần nào là xấu hoàn toàn và cũng chẳng thần nào là Tốt tuyệt đối . Nguyên Sinh Dụng nhưng đồng thời Khác Tiết thế mà Kẻ mình Sinh ra , hỗ trợ là Dụng lạ cắm đầu cúi cổ sinh ra cho bằng được Tiết , Tiết lại không chỉ không biết ơn Dụng mà lại còn giúp cho Cừu là đối tác nôi dưỡng Kỵ luôn luôn chống đối Dụng mà Dụng không ưa phải nỗ lực khắc chế Cừu để tồn tại ; ngược lại nếu không có gì áp chế , khuyến cáo Dụng thì ắt Dụng sẽ làm càn tự tung tự tác ! …đó là Đồng Nhi Dị , là lẽ đương nhiên trong Thiên nhiên Xã hội luôn biến động biến đổi quân bình sinh hoá vậy .

Vì thế Dịch Lý Việt Nam luôn nhắc nhở Yếu Lý Đồng Nhi Dị để người học có được Đức Vô Tư phân biên Chân giả, thiện ác, lợi hại . Sự hiểu biêt vô tư công bằng này sẽ giúp ta an nhiên tự tại , thích ứng với Xã hội tư nhiên với thực tế cuộc sống , có được sự cảm thông độ lượng với muôn loài .

Ngũ thần hay Ngũ hành là Cơ cấu Động Tĩnh Sinh Khắc của mọi Vật mọi Việc của Xã Hội Thiên Nhiên , mỗi người , mỗi nhóm, mỗi Tổ chức , mỗi Xã hội v.v…tạo thành một Cục diện Thiên Hạ Sự hỗn mang, rắc rối nếu không dùng Yếu Lý Đồng Nhi Di làm kính chiếu yêu thì khó mà phân định chân giả, thời lúc và diễn biến .

Ác dã quân bình kỳ ác tắc tán

Thiên giả quân bình kỳ thiện tắc hiện

Dịch Lý Sĩ Xuân Phong

Quy ước Các Thành phần Xã Hội

Một số những quy ước cổ điển hữu dụng biểu trưng các thành phần xã hội , đây chỉ là Sự Đặt Tên ( xin coi Lý Định Danh trong Văn Minh Dịch Lý VN ) ; do quan niện Biến đổi Biến hoá của Vũ Tru cũng Gống mà hơi khác với Biến động Biến đổi của con người do đó đã có những Danh ý như sau :

Danh ý theo Vận hành của Hệ Thái Dương

1. Thái Tuế :là tên chỉ một năm , trong năm có 4 mùa , 12 tháng , 360 ngày

Cổ nhân dùng mô tả một Hệ thông Chủ lực mà Thái tuế, chỉ người Lãnh đạo, người có uy quyền ,có đạo đức , là ngày Tết ngày đầu năm , người dưới quyền là các Tháng , Ngày .

2. Nguyệt Kiến : là Tháng đại diên cho Thái Tuế

Trong Xã hội ví như những người được đai diện Thái Tuế điều hành chính phủ , cơ quan…

3. Nguyệt Phá : đối kháng với Nguyệt Kiến ,chỉ trích phê bình Nguyết Kiến

4. Nhật Thần :

là đại diện cho Tháng lẫn Năm trực tiếp gần gũi với vạn vật , là lúc Âm Duơng sáng tối dễ nhận dễ thấy biết . Ý nghiã trong Xã hội là những lực lượng trực tiếp thi hành quyền lực của Thái Tuế và Nguyệt Kiến .

Danh ý theo Biến hoá Hoá Thành Vạn loại

1. Tuần Không

Danh ý chỉ các nhóm loại không nằm trong Hệ thống Tổ chức chính , là những cá nhân hay nhóm Lưu lạc không vào căn gốc .Có thể phân làm 2 loại :

·Vượng Tướng Tuần Không : Loại người có chính nghiã , bất phục tùng hệ thống đương quyền , họ sẽ ẳnh hưởng rất lớn nếu hệ thống chính dần dần trở nên phi nghiã

·Hưu Tù Tuần Không : là loại người lỗi thời đang ở thời suy yếu, mất chính nghiã, mất tinh lực bị phế thải .

2. Phục Ngâm

Là những thành phần trái nghịch ần tàng sẵn có hoặc vô tình hay cố ý ở trong một cơ cấu làm tiết lộ cơ mật gồm :

Vô cố Phục ngâm : không có ý nội tuyến nhưng vì ngu dại hay bị lợi dụng khéo léo

Biến Dịch Phục Ngâm : bị biến đổi Lý tưởng , thay đổi tâm tánh cố tình ở lại làm nội tuyến .

Tiên cơ Phục Ngâm : Là những kể đã cố tình len lỏi vào để làm nội tuyến.

3.- Phản Ngâm

Là những thành phần ly khai Chống đối

Vô cố Phản Ngâm : Vô tình hành động tưởng đúng hoá ra ngược lại mục đích

Biến dịch Phản Ngâm :Trước hăng say cùng lòng sau tách ly đối kháng.

Tiên cơ Phản Ngâm : Được chuản bị sẵn để cướp quyền lợi quyền lực.

Quy Ước Vượng Động

Trong Vượng có Suy, trong Động có Tĩnh , vì thế chỉ có Vượng và Động là Vấn đề được hình thành , Vượng mà không Động thì giống lửa cháy dưới đáy nước, Động mà không Vượng giống như chấu chấu đá xe .Vượng Động mà Chơn Giả không hay biết thì hối lẫm không kịp.

Vòng Tràng Sinh

Quan sát sự thịnh suy của muôn loài , ngẫm thời Nguyên Hanh Lợi Trinh của Vạn vật Tứ thời bát tiết cồ nhân đặt ra vòng Tràng Sinh, Khởi từ Tràng Sinh cứ thế Giống mà hơi khác Tuần tự Trật tư Sinh Trưởng Thâu Tàng , Thành Trụ Hoại Không mà tạo nên những Chu kỳ Thịnh Suy của Muôn vật


Thời Động

Quy ước này cần có khả năng Chiêm nghiệm vững vàng mới nên dùng vì có thể làm loạn Ý khi xét Ý tuợng .

Theo thứ tự Thanh Long ,Chu tước, Câu trần , Đằng xà, Bạch Hổ, Huyền vũ ở vị trí Hào Sơ khởi lên hào lục theo Can của Ngày như sau :

Thiên Nhiên Xã Hội Học là con đường dẫn đến Đạo Học, Đạo làm người có Tri thức an nhiên tự tại ; dẫn đến Lý Thuyến Tiên Hậu Thiên Trí Tri Ý Biện Minh Chứng Nghiệm tân kỳ khác hẳn các loại môn Dịch Học khác .

Những định danh định ước ở trên chỉ là những Hệ luận của YếuLý ĐỒNG NHI DỊ Dịch Lý Việt Nam chỉ có NHẤT LÝ , NHẤT LUẬT mà biến hóa trùng trùng luật lệ , Thiên Nhiên Xã Hội cho thấy muốn hiểu được tận cùng sâu thẩm của Xã Hội, học giả cần gia công trau dồi Dịch Lý Việt Nam .

Nơi nào có ĐỒNG DỊ là có Âm Dương

Âm dương không là gì cả

Âm dương là không mà có

Âm dương là tất cả

Âm dương cùng lúc chung cùng

Âm trưởng Dương tiêu, Duơng trưởng thì Âm tiêu

Âm ẩn thì Dương hiện, Dương ẩn thì Âm hiên

Âm là manh nha Dương, Dương là Manh nha Âm

Âm đâu thì Dương đó , Dương đâu thì Âm đó

Đồng đâu thì Dị đó, Dị đâu thì Đồng đó

Đại Đồng thì Đại Dị , Tiểu Đồng thì Tiểu Dị.

Đại Đồng có Tiểu Dị, Đại Dị thì có Tiểu Đồng

Tất cả chỉ là Giống Mà Hơi Khác , Hơi hơi Khác ….rồi thành Quá Khác, Qúa quá Khác

và ngược lại .Đó là chuỗi Lý của Vô Cực Tánh hay Đạo Cực mà có lẽ đa số chưa nhận rõ được sự nhiệm nhặt vi diệu nên thường chỉ thấy sự Quá khác , hay Chấm hết ! Phải hiểu HẾT là CỰC , là Điểm Uốn , hết Sáng là Tối , hết Ngày là Đêm hết Yêu đến Ghét… Đó là ý nghiã của Kỳ Nguyên Mới Văn Lý Học là nhịp cầu nối liền giữa Huyền Vi và Hiển hiện ; giữa Văn Minh Tinh Thần và Văn Minh Vật Chất .

Xindùng lời của Ân sư Dịch Lý Sĩ Xuân Phong để thay lời kết .

Chúng nhơn năng giả bất năng chơn

Biến hoá Âm dương quyết thiệt hơn

Giả giả chơn chơn tuỳ thế thế

Khôn chơn khéo giả đạo hành nhơn

Kiền Cấu 23-09-Mậu Tý

Việt Nam Dịch Lý Hội

Phân Hội Đức


Tagged with:

ĐẠI CHÚNG HOÁ LỊCH SỬ

Posted in Dich Lý Báo Tin by vndichlyhoi on September 28, 2008

NHÂN DÂN VIỆT NAM

(Tóm lược Tài liệu học tập dành cho lớp Tiên Ðồng Ngọc Nữ)

Ý thức cho rõ :

1. Con người Việt Nam trên hiện thân xã hội loài người cận đại.

2. Vũ Trụ Lịch tức Lịch Số.

3. Lịch sử oai hùng.

4. Việt ngay gian tính tình, nguỵ mà không nguỵ.

5. Ðạo Cực Võ Văn, khởi thịnh Văn Vő hoá thành bông trái của Thiên Ðịa Quỷ Thần, tức là Việt Nam khai mở Kỷ nguyên mới.

Kỷ nguyên Liên Hành Tinh nói :

Thời đại nhân loại đổ bộ nguyệt cầu và thám hiểm các hành tinh khác, có nghĩa là :

Thời nay nhân loại bước vào : Vũ Trụ Ðạo.

Thời nay nhân loại bước vào : Vũ Trụ Ngữ.

Thời nay nhân loại bước vào : Khoa Học Tổng Tập Nhân Thế.

Thời nay nhân loại bước vào : Trí Tri Cơ Cấu.

Thời nay nhân loại bước vào : Nhịp Cầu Huyền Vi Hiển Hiện Và Cảm Thông Tiếng Nói

Của Muôn Loài Vạn Vật (= Âm Dương Lý).

Nhân dân Việt Nam được và bị trải qua trong vũ trụ vô hữu không thời gian , được và bị sống động trong không thời gian chung cùng liên hệ trong Vũ Trụ Vô Hữu Biến Hóa.

Không thời gian là một cùng lúc chung cùng, :

Không gian : khắp mọi nơi, bao trùm thời gian.

Thời gian : mọi thời lúc, mốc đo không gian : thời điểm quy ước.

Không thời gian Xã hội loài người :

Tính không gian = phương hướng.

Tính thời gian = Lịch số (quy ước)

· Sự thật : Không gian đâu, thời gian đó.

Ðể đa số dễ nhận thức, ta tạm phân thời gian và không gian mà nhân dân Việt Nam được và bị sống động trải qua :

Không gian : trên hành tinh địa cầu nhân loại ở miền đông phương châu Á.

Thời gian : 1200 năm cận đại.

1. 1200 năm cận đại trong vũ trụ vô hữu biến hoá, trong xă hội loài người, trong dân tộc Việt Nam :

Vũ Trụ Lịch từ 3102 – 4251 (tức Giáp Dần)

Phật Lịch từ 1369 – 2518(tức Giáp Dần)

Chúa Lịch từ 825 – 1974(tức Giáp Dần), hội Ngọ kỳ này (1 hội = 10800 năm)

2. Trong khoảng thời gian vừa kể trên :

Tùy theo thời lúc, địa phương nhân dân Việt Nam được và bị gán danh : Việt ngay, Việt gian, thực dân, nô lệ, sùng ngoại, vong bản, ngụy này, ngụy kia …

Danh tánh được gán có hơi khác nhau (dị) về ngôn xướng nhưng cùng để diễn tả ý nghĩa xấu xa (đồng) vì :

Nhân dân Việt Nam chưa có nêu lên, trình bày rõ chủ trương, chủ xướng bằng như không có chủ trương, chủ xướng. Chỉ chạy theo, được và bị a dua, a tòng theo, ăn làm theo, bắt chước theo, động tĩnh theo kiểu Ðạo Tùy. Ðược và bị sống chết theo kiểu chủ trương, chủ xướng vững mạnh của người nước ngoài bằng như sống cho kẻ khác, dân tộc khác, tiếp tục trung thành triệt để cho người nước ngoài, tiếp tục nhắm mắt, nhắm mũi ca ngợi người nước ngoài vĩ đại.

Ðó là sự sống động chung cùng liên hệ trên hành tinh địa cầu nhân loại (giữa người Việt Nam và người nước ngoài). Tức như đang còn giả bộ sống cho chủ nghĩa, chủ trương của Tàu Tây Nga Mỹ Nhật v.v…

Dĩ nhiên có văn hóa vong nô, sùng ngoại, lai căn, lẽ tất nhiên rơi vào các thời kỳ :

3. Các thời kỳ mà nhân dân Việt Nam được và bị gán danh Ngụy (1200 cận đại) :

a/ Thời gian Tàu đô hộ và chi phối : 1042 năm.

Vũ Trụ Lịch từ 3102 – 4144

Phật Lịch từ 1369 – 2411

Chúa Lịch từ 825 – 1867, hội Ngọ kỳ này (1 hội = 10800 năm)

· Tàu : đời Ðường, Hậu Lương, Hậu Ðường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu, Tống, Nguyên, Minh, Thanh song song với các triều đại :

· Việt Nam : Ngô, Ðinh, Lê, Lý, Trần, Hồ, lệ thuộc Minh, Hậu Lê, Trịnh Nguyễn phân tranh, Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Ðức.

Thời lúc ấy nhân dân Việt Nam chưa có chủ trương, chủ nghĩa mà nêu lên, cho nên đă được và bị ảnh hưởng văn hóa Tàu trên 1000 năm : thời Ngụy Tấn, Hán, rợ Mông cổ …

· Văn chương : kính cẩn khom lưng thâu thập tinh hoa văn hóa nước ngoài để góp chút công đức trong việc củng cố nền văn hóa vong nô sùng ngoại, văn hóa ngụy.

· Môn phái võ : sang Việt Nam âm thầm và công khai.

Người Việt Nam được và bị động tĩnh theo chủ trương, chủ xướng của Tàu (Tàu đô hộ Việt Nam, các vua chúa Việt Nam lo triều cống thích thú và bất đắc dĩ để trọn nghiệp hát bội, hát chčo trong giai đoạn)

Sự thật, phải lựa chọn cái khéo, rồi chế biến thành cái hay cho dân tộc.

Trong và sau thời gian này, nhân dân Việt Nam được và bị gán đủ thứ danh : Việt gian, Việt ngay, Việt cong lưng, khúm núm, Ðường ngụy, Lương ngụy …

Kế đó, người Tàu bèn san sẻ, chia nhượng, chia chác quyền lợi, trao đổi hàng hóa xứ Ðông Dương, trong số đó có Việt Nam, cho người Pháp. Những con người Pháp văn minh vĩ đại, kinh khủng, rùng rợn đến xâm lăng, xâm lấn các dân tộc thiểu số đông phương châu Á.

ă/ Nước Việt Nam được và bị hóa thành ra là thuộc địa mới của Pháp.

Vũ Trụ Lịch từ 4144 – 4221

Phật Lịch từ 2411 – 2488

Chúa Lịch từ 1867 – 1944, hội Ngọ kỳ này (1 hội = 10800 năm)

Nhằm thời Tự Ðức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc, Hàm Nghi, Ðồng Khánh, Duy Tân, Thành Thái.

Người Pháp nhập cảng đạo Thiên Chúa, văn hóa trữ těnh, ướt át, bay bướm, triết lý cá nhân chủ nghĩa.

Người Việt Nam trịnh trọng đón nhận hoặc tương kế tựu kế gě đó để đón nhận máy móc, vũ khí.

Pháp giết người Việt Nam hay ho, tài tình và khiếp đảm như vậy. Có thấy bao nhiêu phong trào chống Pháp, kháng chiến bị văn minh giết người của Pháp vùi dập tơi bời không ? Pháp dạy cho người Việt bắn súng giết người, hại người Việt Nam và giết cả người Pháp, đào tạo trí thức nô lệ.

Trong và sau thời gian này, nhân dân Việt Nam được và bị gán danh : Tàu ngụy, Pháp ngụy.

â/ Nhật khuynh đảo Pháp ở Việt Nam.

Vũ Trụ Lịch từ 4221 – 4222

Phật Lịch từ 2488 – 2489

Chúa Lịch từ 1944 – 1945, hội Ngọ kỳ này (1 hội = 10800 năm).

Nhằm thời Khải Ðịnh.

Người Nhật mang theo Thiền đạo, Nhu đạo, Trà đạo, Thần đạo …

Trong và sau thời gian này, nhân dân Việt Nam được và bị gán danh Nhật ngụy và có câu “Ăn cơm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật”.

b/ Nhật chia chác quyền lợi xứ Ðông Dương cho Mỹ, Anh, Pháp, Nga.

Pháp công khai trở lại đô hộ Việt Nam. Mỹ tham gia ngấm ngầm ở bên trong hậu trường tà loạn ác độc và Nga Chệt cũng manh nha tham gia rầm rộ.

Thời kỳ Pháp ngụy bộ mặt mới :

Vũ Trụ Lịch từ 4222 – 4231

Phật Lịch từ 2489 – 2498

Chúa Lịch từ 1945 – 1954, hội Ngọ kỳ này (1 hội = 10800 năm).

Thời Khải Ðịnh, Bảo Ðại, Ngô Ðình Diệm với Hồ Chí Minh, Nguyễn Văn Thiệu với Tôn Ðức Thắng.

Người Việt Nam còn bị và được nhập cảng văn hóa, văn minh tây phương lần thứ hai do Nga Mỹ mang đến. Dĩ nhiên lần này cực kỳ tinh vi, gian dối hơn, tàn bạo ác độc hơn, tối tân, man rợ hơn với những chiêu bài Ðại đồng, Vô thần, Hữu thần, Tư bản, Cọng sản, Vô sản, Hữu sản. Các học thuyết ngu si Karl Marx, Lenine, Paul Sartre, Hegel, Engel, Kant, Descartes, Camus, Heideyger.(Heidegger). Các tôn giáo Thiên chúa, Tin Lành, Bahai, đạo Dừa … để đầu độc cùng với những xảo ngữ khôngh bao giờ thực hiện và cũng chẳng làm sao thực hiện được như : Dân làm chủ (dân cóc có làm chủ), Tự do (dân cóc có tự do).

Họ dạy bắn súng tốt, bắn súng giỏi (bắn người Việt Nam và cả ngoại bang)

4.- Phải chăng kiếp người Việt Nam chúng ta là Việt gian mà không Việt ngay, Việt cong mà không Việt thẳng ?!

Ðáp :

Có Việt ngay mà cũng có Việt gian rất đúng lúc. Trong âm dương đức tính ngụy ấy lại có Việt tính nhiều Ngụy tính ít và Ngụy tính nhiều Việt tính ít. Chính nghĩa nhân dân, dân tộc vốn sẵn có trong lòng dân tộc Việt Nam, được lưu dấu, lưu truyền và sẽ vùng lên thật hùng mạnh khi có chủ trương, chủ xướng, chủ nghĩa rõ rệt, đúng lúc.

Cho tới bao giờ nhân dân Việt Nam mới hết bị và được gán danh Nguỵ này, Nguỵ kia, Nguỵ nọ ? Cho tới bao giờ nhân dân, dân tộcViệt Nam mới có chủ trương, chủ xướng cho thật rõ rệt ?

Xin trân trọng đáp rằng : Đã hết thời Ngụy rồi. Tại sao ?

· Ðã cùng cực Ngụy, không thể nào và không làm sao mà ngụy hơn được nữa (đầy đủ mặt ngụy rồi).

· Thời kỳ đúng lúc nhân dân, dân tộc Việt Nam trở về nguồn (thời chán ngấy chạy theo chủ trương, chủ nghĩa của ngoại bang, bớt động tĩnh theo kiểu giao mạng, ỷ lại). Đồng thời ngoại bang chán ngấy nhân dân Việt Nam vì đã đến thời nhân dân Việt Nam có chủ trương, chủ xướng rő ràng thuộc văn vő, đã công khai tuyên bố khắp cùng cả nhân loại.

· Nhân dân Việt Nam phải có ngày nay như thế mới được.

· Thời Việt Nam Kỷ Nguyên Mới với 09 Phân Khoa đáp ứng đúng lúc và đúng nhu cầu nhân loại khoa học ngày nay : Văn Vő.

· Nhân dân Việt Nam cần phải biết giá trị của nhân dân Việt Nam đă chịu đựng cho nhân loại trong truông Võ Văn xâm lăng như sau :

Trung Hoa :

Một xứ đất rộng người đông bậc nhất trên hành tinh địa cầu nhân loại, đã bị Bát Quốc Liên Quân, tức là 8 nước liên kết quân đội lại, vây đánh. Và gần đây vấn đề Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Đông : đó là vấn đề Á Âu Âu Á (da trắng đánh da vàng).

Việt Nam :

Cũng trong truông da trắng đánh da vàng :

· Mượn da vàng làm công cụ.

· Mượn danh từ Cọng sản, Tư bản để phỉnh gạt giết hại hơn 10 triệu sinh linh người Việt trong 30 năm qua.

· Sự giết người tàn bạo quá lâu dài và xúi giục cho người Việt Nam đánh giết lẫn nhau : vấn đề Á Âu Âu Á.

Vài chục quốc gia, chạy theo chủ trương của Tàu Tây Nga Mỹ, a tùng vào việc giết hại người Việt. Vài chục nước liên hệ chứ không phải 8 nước liên kết quân sự.

Chí khí hùng mạnh của Việt Nam đă chịu đựng.

+ Sự kiện đó, hiện tượng đó được ví như biển cả văn minh vật chất tây phương (Tàu Tây Nga Mỹ) đem văn minh Võ Văn giết người và đă giết người Việt Nam về tới tận sông rạch khe nguồn tại lòng đất Việt Nam ở Phương Ðông châu Á suốt dọc từ Nam chí Bắc : giá trị Việt Nam, xương máu trí não.

Chính thời lúc đó, ngay tại lòng đất Việt Nam nhỏ bé lại được và bị đạo Thiên Ðịa Cực (Âm Dương Dương Âm Cực) là lý do khiến cho có vấn đề Việt Nam đáp ứng đúng lúc, đúng nhu cầu nhân loại là khai mở Kỷ Nguyên Mới, khôi phục nền văn minh Âm Dương Học Ngàn Xưa : Văn Minh Âm Dương Rồng Tiên.

+ Sự kiện này, hiện tượng này được ví như biển cả văn minh đông phương đă vươn lên, tinh thần đông phương khởi sáng trở lại tại lòng đất Việt Nam. Tức là Việt Nam khai nguyên văn minh Văn Vő, từ đó tự nhiên đổ ngược trở về tới các sông rạch khe nguồn của bất kể quốc gia nào trên hành tinh địa cầu nhân loại, bất kể Á Âu.

5.- Chủ trương Việt Nam đã rő rệt.

+ Người Việt Nam khai mở Kỷ nguyên mới đánh dấu Võ Văn CựcVăn Vő khởi, chính là nhân dân Việt Nam làm cái việc : khôi phục Văn Minh Âm Dương Rồng Tiên. Sáng tạo, sáng tác 09 Phân khoa Quốc tế Nhân loại (văn minh Văn Vő khởi thịnh do dân tộc Việt Nam khởi xướng).

Từ nay đã rő rệt, Việt Nam có chủ trương, chủ xướng, sinh động, gợi ý, hướng dẫn, học tập 09 Phân Khoa cho nhân dân Việt Nam trước tiên (hợp tình) và cho nhân loại học hỏi kế đó (hợp lý).

Nếu muốn sẽ được học hiểu biết thật rő ràng Chân Lý muôn đời, nuôn nơi và mãi mãi để xă hội loài người biết động tĩnh, tiến thoái khá hay ho và theo kịp đà tiến thoái của vũ trụ vô hữu không thời biến hóa hóa thành trên hiện thân xã hội loài người.

TÓM TẮT

Tóm lại, Kỷ nguyên mới do dân tộc Việt Nam đă khai mở từ năm Ất Tỵ đến nay là năm Giáp Dần :

Vũ Trụ Lịch từ 4242 – 4251

Phật Lịch từ 2509 – 2518

Chúa Lịch từ 1965 – 1974, hội Ngọ kỳ này (1 hội = 10800 năm).

Một khi đă gọi là Kỷ nguyên cần phải hiểu rằng : loài người sống động trong vũ trụ vô hữu như một loài cây hoa sống động trên mặt đất, cứ hễ tới mùa thì nó bị và được trổ sinh.

Vậy Kỷ nguyên mới được ví như bông trái mới của nhân loại đă trổ sinh, tức là bông trái của mọi người chứ không phải của riêng ai cả, không riêng cho dân tộc nào cả.

Vậy Kỷ nguyên mới là âm dương tú khí của vũ trụ vô hữu trên hiện thân của nhân loại đă trổ sinh tự nhiên tại Việt Nam, đông phương châu Á trên 10 năm nay rồi.

Bông trái của Kỷ nguyên mới gồm 09 Phân Khoa Quốc Tế Nhân Loại.

Nhân loại được dân tộc Việt Nam cung ứng cho những sở học tân kỳ độc đáo vượt qua mặt tất cả mọi học vấn xưa nay, bất kể đạo lý khoa học nào.

Là thời của Kỷ nguyên Liên Hành Tinh.

Thời nay nhân loại bước vào : VŨ TRỤ ÐẠO.

Thời nay nhân loại bước vào : VŨ TRỤ NGỮ.

Thời nay nhân loại bước vào : KHOA HỌC TỔNG TẬP CỦA LOÀI NGƯỜI.

Thời nay nhân loại bước vào : TRÍ TRI CƠ CẤU.

Thời nay nhân loại bước vào : NHỊP CẦU HUYỀN VI HIỂN HIỆN VÀ CẢM THÔNG TIẾNG NÓI CỦA MUÔN LOÀI VẠN VẬT (= Âm Dương Lý).

Dù muốn dù không thì trên hiện thân xã hội loài người cũng đă trổ sinh như thế. Tại lòng đất Việt Nam, đă có vấn đề nhân loại như vậy. Dân tộc Việt Nam tính sao đây ? Phải làm gì đây trong kiếp sống làm người Việt Nam khi đi ngang qua, trải qua trên hành tinh địa cầu nhân loại ?

Lưu ý :

Khả năng sản xuất sáng tạo kể như đã xong. Còn lại chỉ có vấn đề thời gian để xuất cảng và nhập cảng vào những quốc gia nào cần đến những phân khoa kỷ nguyên mới đó và chúng ta sẽ kết nghĩa đồng minh.

Mặc dù chúng ta, dân chúng, dân tộc Việt Nam, không cần ai tin theo, nghe theo, chạy theo hay làm theo gì cả, nhưng khắp trời Á Âu đã tự ý hành động rầm rộ học ngôn ngữ Việt từ trung đến đại và cao học mà chúng ta không có quyền gì cấm cản họ được.

Hiện tượng đó có nghĩa là nhân loại đã mặc nhiên chấp nhận và cất bước vào Kỷ nguyên liên hành tinh. Học ngôn ngữ Việt tức cất bước để rồi sẽ học hiểu cho được về 09 phân khoa của Việt Nam sáng tạo và chủ xướng.

VIỆT NAM DỊCH LÝ HỘI

1974

vndichlyhoi@yahoo.com

ĐẠI CHÚNG HOÁ

Posted in Uncategorized by vndichlyhoi on August 13, 2008

VẤN ĐỀ ÂM DƯƠNG LÝ HỌC

Tự trong Vũ trụ Âm dương đã hiển hiện trùng trừng điệp điệp ngay từ khởi đầu của Vũ Trụ , điểm khởi đầu đó cũng là điều con người hằng mong muốn tìm hiểu khám phá , nhận thức Âm dương của con người ở mỗi nơi mỗi lúc đều có nhiều hình thức hơi khác nhau hay khác biệt hoặc quá khác , nhưng nội dung hàm chứa một Âm dương lý vĩnh viễn là một là Sự Biến dịch tạo hình Vũ trụ và Vạn vật từ một Điểm Không khởi đầu Không Hoàn Toàn Không để thành CÓ và Biến đổi Biến Hoá Biến động thành Vũ trụ muồn mầu muôn vẻ hôm nay .

Đã có rất nhiều Triết gia , Lý thuyết gia đưa ra rất nhiều Giả thuyết Cấu tạo Vũ Trụ nhưng gần nhất cận đại nhất và được các Nhà Khoa Học Lý Thuyết như Albert Einstein với Lý thuyết Tương Đối , Edwin Hubble với Thuyết Vũ trụ nở rộng dẫn đến Lý thuyết vụ nổ Big Bang và hiện nay là Nhà Bác Học Stephen Hawking của Học Hội Hoàng Gia Anh .

Các Khoa học gia ngày nay đã đành phải mô tả Vũ trụ theo hai Lý thuyềt : Thuyết Cơ Học Lượng Tử và Thuyết Tương Đối Tổng Quát để khảo sát . Thuyết Tương đối mô tả Trọng trường và cơ cấu vĩ mô của vũ trụ trong khả năng quan sát được ( 10 luỹ thưà 24 Dậm Anh ) Thuyết Cơ học lượng tử giải thích các hiện tượng vô cùng nhỏ ;do đó người ta đang cố gắng tìm kiếm một Lý thuyết hợp nhất cho cả hai .

Stephen Hawking đã viết :

Chúng ta biết gì về Vũ Trụ ? Vũ trụ có một khởi thuỷ hay không ? Và nếu có thì chuyện gì xẩy ra trước đó ? Bản chất Thời gian là gì ? Liệu nó sẽ đi tới kết cuôc hay không ?

A Brief history of time Vol. I

Để tìm cách giải quyết những bế tắc của Khoa học Tây phương Werner Heisenbergđã gợi ý qua Kinh nghiệm của Nhật Bản :

Đóng góp lớn nhất trong ngành Vật lý Lý thuyết của Nhật Bản sau cuộc chiến tranh thế giới vừa qua có lẽ là dấu hiệu của một mối liên hệ nhất định giữa các tư tưởng phương Đông và nội dung triết học của lý thuyết lượng tử.

Werner Heisenberg

Vì thế các Học giả phương tây đã ồ ạt sang Phương Đông nghiên cứu ; có thể nói người đầu tiên là Mục sư Richard Wilhelm (1873-1930) cùng phái đoàn truyền giáo sang China , Ông là người rất say mê lãnh vực Tâm linh nên đã ở lại China trên 20 năm ; nhận thấy Kinh Dịch là trọng yếu nhất trong tất cả các Bộ kinh Trung quốc , nên đã học hỏi và chuyển ngữ Kinh Dịch từ tiếng Trung hoa sang Tiếng Đức tựa đề I Ching The book of Change ( I Ging Das Buch der Wandlungen), đây cũng là tác phẩm nổi tiếng nhất Thế giới là tiền đề cảnh tỉnh Khoa Học vật chất vô thần và ông đã hoàn tất vào năm 1923 Sách được dịch sang tiếng Anh bởi Kary Baynes học trò của ông .Ông là sáng lập viên China Institut tại Frankfurt nhằm cố gắng thúc đẩy sự hiểu biết giữa Đông và Tây phương ; mặc dù gặp nhiều sự chống đối của Giáo hội nhưng ông cũng được nhiều sư ủng hộ như của Bá Tước Hermann Keyserling , Karl Gustav Jung khi dậy ở The School of Wisdom Darmstadt , và nhiều người khác như Hermann Hesse , Martin Buber , Joseph Hauer. Rabindranath Tagore v.v…sau này người con của Bá tước Keyserling , Arnol Keyserling (1922-2005) Giáo sư tại Academy of Applid Arts Vienna cũng lãnh hội tinh hoa để truyền giảng cho đến nay . The Shool of Wisdom có mặt nhiều nơi trên thế giới .

.

Tiếp đó một làn sóng đi Học Tiếng Việt nổi rộ khắp toàn cầu ; đây là điều chúng ta nên chú ý và nên đặt câu hỏi Tại sao ? .

Tại Á châu , nền Triết học Âm dương Dịch lý nằm sâu thẳm trong lòng mỗi Dân tộc cho nên chúng ta không lạ gì khi nghe nói Dịch lý Tầu , Dịch Lý Nhật , Dịch Lý Đại Hàn , Dịch Lý Việt Nam … Điều đáng tiếc là Người Việt từ lâu đã không tìm hiểu và phát triển Văn minh Dịch Lý của mình , phải chăng do bị liên tục đô hộ của Ngoại bang và do dồn góp nỗ lực chống nội ngoại xâm nên sự thăng hoa đã bị trì hoãn cùng với sự tự ti lạc hậu và vọng ngoại đã làm đình trệ Tâm thức Việt !

.

Gần đây một số nhân sĩ đã vực dậy Văn hoá Dân tộc; LM Lương Kim Định là tiêu biểu tuy vẫn còn ảnh hưởng Dịch Tầu dùng tài liệu của Dịch Tầu ! Hiện nay với Khoa Khảo Cổ Học một số nhà nghiên cứu như Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh , Trần Quang Bình v.v… đưa vấn đề Nguồn gốc Kinh Dịch là của Người Việt Cổ xưa và chứng minh sự kiện này là có thật với nhiều bằng chứng sâu sắc .

Năm 1965 tại Sài gòn Hội Dịch Lý Việt Nam đã ra một Tuyên ngôn Đại Chúng Hoá minh định một nền Học thuật Dịch lý hoàn toàn của người Việt không chấp vá lai căng ; đã Đại Chúng Hoá một Nền Văn Minh Dịch Lý Việt Nam , một nền Văn Học Việt Nam Mới , một Kỷ Nguyên Mới của Dân Tộc: Kỷ Nguyên Tiên Hậu Thiên Trí Tri Ý Thức ; đã hoàn tất một Khoa Học Tổng Tập gồm 9 Phân Khoa .

Dưới đây là đoạn trích trong Tuyên Ngôn Đại Chúng Hoá :

·Trong một Đoạn Tài liệu quyển “Trí-Tri Ý-Thức lưỡng diện” ( *bí mật giao đến Hội DLVN tại Hoà Hưng) đã viết rất rõ ràng rằng: “Kể từ Lénine tới Mao-Trạch-Đông, họ luôn luôn khuyến cáo các cấp lãnh-đạo Cộng-Sản PHẢI BIẾT ĐỘI LỐT DÂN-TỘC để mà đi . Vậy, học-thuyết Tư-Bản và Cộng-Sản trên đường đi là CHUYÊN-MÔN ĐỘI LỐT DÂN-TỘC khi Xâm-Lăng, Tư-Bản và Cộng-Sản đã chung nhau ra sức Tiêu Diệt Kỷ-Nguyên Mới, tức Kỷ-Nguyên Tiên-Hậu-Thiên Trí-Tri Ý-Thức (hay Kỷ-Nguyên Liên-Hành-Tinh cũng vậy) do dân-tộc Việt-Nam Khai-Sáng, nhưng, không được, rồi vì Chuyên-môn đội lốt dân tộc, thành thử ra phải đội lốt Dịch Lý Việt-Nam để mà đi!

Điều này chứng minh rõ ràng khắp nơi ở Ngoại-Quốc đã hay biết Dịch-Lý Việt-Nam, còn như ở trong nước:

·Tuyển-Tập “TƯ-TƯỞNG” số 7/70 vàsố 5/71 của Viện Đại-Học Vạn-Hạnh các Giáo-sư có tầm-vóc lớn tại Viện này đã bày tỏ Thái-Độ và Trình-Độ Hiểu-Biết của mình về Vấn-Đề Dịch-Lý nhưng lại cố ý ém nhẹm Dịch-Lý Việt-Nam một cách lộ-liễu, đáng trách .

·Cục Quân-Huấn Việt-Nam Cộng-Hòa với Tuyển-Tập 8 đã quả-quyết: Chỉ có DỊCH LÝ mới không sợ sai lầm và chỉ có Dịch-Lý mới giải-quyết được Chiến Tranh Việt-Nam và Hậu quả .

·Giáo-Sư Hoàng-Xuân-Việt đã mời chúng tôi lên truyền hình Việt-Nam ở mục “Những vấn-đề của chúng ta hôm nay” để công-khai tìm hiểu D.L.V.N.

·Giáo-Sư Tiến-Sĩ Nguyễn-Thị-Huệ đã mời Hội DLVN diễn-thuyết tại Học-Viện Quốc-Gia Hành-Chánh Việt-Nam Cộng-Hòa .

·Giáo-Sư Phạm-Văn-Sơn giới-thiệu Dịch-Lý Việt-Nam trong quyển “Cần phát-triển Văn-Hóa Việt” đã được trường Cao-Đẳng Quốc-Phòng Việt-Nam chấm đậu “ngoại hạng” do Thủ-Tướng Trần-Thiện-Khiêm ký tên .

( Hết trích )

Vậy, đã quá rõ ràng, không thể phủ-nhận, không thể chối-cãi và cũng không thể nào cho rằng Hội DLVN CHỦ-QUAN khi nói: “Tại vì có vấn-đề DỊCH-LÝ TÂN-KỲ” do Dân-Tộc Việt-Nam Phát-Minh mà khiến xui được nhiều người Đại Trí-Thức Ngoại-Quốc học Ngôn-Ngữ Việt rần-rộ.

.

Riêng Đại chúng Việt Nam cho đến nay không được biết đến hoặc hay biết quá ít về Dịch Lý Việt Nam chính là do mưu đồ của những kẻ muốn thống trị VN lâu dài , đã kìm hãm truyền bá, bị và được che dấu vu khống bôi nhọ trù dập những nhân sĩ chân chính của Hội Dịch Lý Việt Nam .

Tóm lại Dịch Lý là Lý lẽ biến hoá biến đổi biến động, liên lỉ liên tục, bỉ thái thái bỉ, tuần tự trật tự của Vũ Trụ, là Lý lẽ Cấu thành Vũ Trụ , là Huyền cơ Tạo Hoá ; Lý lẽ ấy phải đúng ở mọi nơi mọi lúc , phải chi li nhiệm nhặt nội tại trong mọi giống loài , để khám phá được Lý lẽ ấy con người chỉ cần tự kiểm chứng , chiêm nghiệm dồi mài liên lỉ với tài liệu chính thống của Hội Dịch Lý VN để Trí tri Ý của chình mình có được thần minh vô tư bất thiên bất nhiễm bắc cầu cùng với huyền vi và hiệu hữu , tri cảm bị và được; đó là nguyên tắc tu tập của Dịch lý Việt Nam .

.

Việt Nam Dịch Lý Hội

Phân Hội Đức


Lôi Hoả Phong 12.07.MậuTí

___________________________________________

*Lời ghi chú thêm của người viết .

DỊCH LÝ VIỆT NAM

Posted in Uncategorized by vndichlyhoi on June 24, 2008

VỤ NỔ BIG BANG VÀ DỊCH LÝ VIỆT NAM

Trong lời nói đầu cuốn A Brief History of Time tác giả là Nhà Bác Học Stephen Hawking đương đại được giới Khoa Học coi là Albert Einstein thứ 2 và Giáo sư Carl Sagan viết lời tưạ có những phát biểu :

Hàng ngày chúng ta sinh hoạt trong khi hầu như không hiểu biết gì về thế giới. Chúng ta chỉ quan tâm chút ít về cái bộ máy phát ra ánh sáng mặt trời mà nhờ đó mới có sự sống, về cái trọng lực buộc chặt chúng ta trên trái đất mà nếu không có nó thì chúng ta sẽ bị thảy lăn lóc trong không gian, hoặc về những nguyên tử cấu tạo nên thân thể, và chúng ta tùy thuộc vào sự ổn cố của chúng.

Ngoại trừ trẻ con (chúng ngây thơ nên không ngần ngại hỏi những câu hỏi quan trọng), chỉ có một số ít trong chúng ta dành nhiều thì giờ để thắc mắc tại sao thiên nhiên lại như thế này thế nọ; vũ trụ phát sinh từ đâu, hay là xưa nay nó vẫn vĩnh hằng hiện diện ở đây; phải chăng tới một ngày nào đó thời gian sẽ trôi ngược chiều và những hậu quả sẽ đi trước những nguyên nhân; hoặc phải chăng có những giới hạn tối hậu đối với những gì mà con người có thể hiểu biết. Có những trẻ em – và tôi đã từng gặp một số – muốn biết một hố đen trong vũ trụ giống như thế nào; bộ phận nhỏ nhất của vật chất là gì; tại sao chúng ta nhớ được quá khứ mà không phải tương lai; nếu ở thời sơ khai có sự hỗn loạn thì làm thế nào mà hiện tại lại đang có trật tự như chúng ta thấy; và tại sao lại có một vũ trụ.

– Carl Sagan
Đại Học Cornell
Ithaca, New York

Tôi đã quyết định thử viết một cuốn sách phổ thông về không gian và thời gian sau khi tôi phụ trách khóa giảng Loeb tại Đại Học Harvard năm 1982. Trước đây đã có một số đáng kể những cuốn sách về vũ trụ ở thời sơ khai và những hố đen, từ những sách rất hay, như cuốn Ba Phút Đầu Tiên (The First Three Minutes) của Steven Weinberg, cho tới những sách rất dở mà tôi sẽ không nêu tên. Tuy nhiên, tôi cảm thấy rằng không có cuốn sách nào trong số đó thực sự đề cập những vấn đề đã xui khiến tôi nghiên cứu về vũ trụ luận và thuyết lượng tử: Vũ trụ đến từ đâu? Nó đã bắt đầu như thế nào và tại sao? Nó có sẽ đi tới kết thúc hay không, và nếu kết thúc thì sẽ như thế nào? Đây là những câu hỏi đáng được tất cả chúng ta quan tâm. Nhưng khoa học hiện đại đã trở thành kỹ thuật hóa đến nỗi rằng chỉ có một số ít chuyên gia có thể nắm vững toán học dùng để mô tả những vấn đề đó. Tuy nhiên, những ý niệm cơ bản về khởi thủy và vận mệnh của vũ trụ thì có thể lý giải không cần tới toán học, trong một hình thức mà những người không được huấn luyện về khoa học có thể hiểu. Đây là điều mà tôi đã thử làm trong cuốn sách này. Độc giả sẽ phán đoán xem tôi có thành công hay không.

– Stephen Hawking
20 tháng 10 năm 1987

Vũ trụ và Khoa học

Khoa học hiện đại đã và đang tiến rất mạnh mẽ nhờ Lý Thuyết Tương Đối Rộng của Albert Einstein và Lý Thuyết Vụ Nổ Lớn ( Big Bang) đã loại bỏ được hai khái niệm tuyệt đối của khoa học thế kỷ 19: Thuyết không gian Ether với Vũ Trụ đứng yên tuyệt đối và Quan niệm Thời gian tuyệt đối phổ quát là bằng các đồng hồ chỉ thời gian .

Vụ Nổ Lớn là một lý thuyết khoa học về nguồn gốc của vũ trụ. Lý thuyết đó được phát biểu : Vũ Trụ được bắt đầu từ một Điểm Kỳ Dị có mật độ vật chất và nhiệt độ cực lớn vô hạn tại một thời điểm hữu hạn trong quá khứ và có Kích thước cực nhỏ .

Từ Lý thuyết này , không gian đã mở rộng cùng với thời gian và làm cho các thiên hà di chuyển xa nhau hơn, tạo ra một vũ trụ giãn nở như chúng ta thấy ngày nay.Nó được minh chứng bằng các thí nghiệm về dịch chuyển về phiá đỏ của các thiên hà (định luật Hubble). Nghĩa là các thiên hà đang rời xa nhau và cũng có nghĩa là chúng đã từng ở rất gần nhau trong quá khứ và quá khứ xa xưa nhất, cách đây khoảng 13,7 tỷ (13,7 × 10 9) năm : Vậy chúng rất gần nhau tại một điểm kỳ dị.

Cũng từ “Vụ Nổ Lớn” các Khoa Học gia sử dụng trong nghĩa hẹp là một thời điểm khi sự mở rộng của vũ trụ bắt đầu xuất hiện, và theo nghĩa rộng là quá trình tiến hóa để giải thích nguồn gốc và sự phát triển của vũ trụ .
Các Thành quả thực tế ngày nay đã chứng tỏ điều này :

Năm 1989 cơ quan NASA hàng không vũ trụ Hoa Kỳ đã phóng vệ tinh thăm dò có tên là Phông Vũ Trụ COBE , các kết quả ban đâu quan sát đươc rất phù hợp với các tiên đoán của Lý thuyết Vụ Nổ Lớn liên quan đên Bức Xạ Phông Vũ Trụ ; COBE đã tìm thấy nhiệt độ dư là 2,726K và xác định bức xạ đó là đẳng hướng và có độ chính xác 10-5

Các dữ liệu này cho phép các nhà vũ trụ học tính toán rất nhiều thông số về Vụ nổ lớn với độ chính xác cao và những khám phá bất ngờ là sự giãn nở của vũ trụ không phải là đều mà đang được gia tốc.

Vào đầu năm 2003 các kết quả từ Vệ tinh dị hướng vi sóng Wilkinson (WMAP) được phóng đi và đã thu được các giá trị chính xác nhất về các thông số vũ trụ. Vệ tinh này cũng loại bỏ một số mô hình lạm phát vũ trụ đặc .

Tất cả các quan sát đều được giải thích bằng mô hình Lambda-CDM, trong đó, mô hình toán học về vụ nổ lớn có sáu thông số tự do. Bí ẩn xuất hiện khi người ta quan sát gần điểm khởi đầu, khi mà năng lượng của các hạt lớn hơn năng lượng mà các thực nghiệm chưa đạt được.

Hiện không có mô hình vật lý nào mô tả vũ trụ ở thời điểm trước 10-43 giây,tức trước thời điểm có Điểm Kỳ Dị (Điểm có khối lượng, nhiệt độ vô cùng lớn – kích thước vô cùng bé ) . Tại thời khắc ngắn ngủi tức thì này, lý thuyết Einstein về hấp dẫn tiên đoán một điểm kỳ dị hấp dẫn, tại đó mật độ vật chất trở nên vô hạn. Để giải quyết nghịch lý vật lý này, người ta cần đến lý thuyết lượng tử hấp dẫn. Đó là một trong những vấn đề chưa giải quyết được trong vật lý

h=6.626 069 3 x10-34 J.s

h= hằng số Planck ; J = Joule ; s= giây

Tuy nhiên trong Khoa vũ trụ học, Kỷ nguyên Planck đặt theo tên nhà vật lý nổi tiếng người Đức Max Planck được dùng để chỉ khoảng thời gian sớm nhất của lịch sử vũ trụ từ lúc 0 giây cho đến 10-43giây (bằng một thời gian Planck), và ngay tức khắc sau Vụ Nổ Lớn đó bốn lực cơ bản được thống nhất. Đây là một thời khoảng lý thuyết mà tất cả những định luật của nền vật lý cổ điển cũng như vật lý lượng tử đều không áp dụng được. Có nghĩa là, trước đó trước lúc 0 Giây, chúng ta hoàn toàn không biết gì về vũ trụ với những lý thuyết vật lý hiện tại do vậy ở thời điểm ấy ta vướng phải một “bức tường” trừu tượng. gọi là Bức Tường Planck.

Thời gian và không gian mà chúng ta quy ước hiện nay trở thành các khái phức tạp và nan giải trong suốt kỷ nguyên Planck (từ 0 đến 10-34 giây ) Vì Ở Điểm Kỳ Dị , trong thuyết tương đối rộng ; các độ đo lường vật lý như áp suất, nhiệt độ …cao đến mức mà không-thời gian có vẻ như đạt đến một độ cong (curvature) vô hạn . Kích thước của vũ trụ tại thời điểm này có độ lớn bằng độ dài Planck, ký hiệu Lplanck, và có giá trị xấp xỉ , là độ dài vật lý nhỏ nhất được coi là có ý nghĩa trong các lý thuyết vật lý hiện tại. Nó thể hiện một độ dài tự nhiên theo đó xuất hiện một lý thuyết hấp dẫn lượng tử nào đó.

Trong đoạn kết của cuốn Lược sử Thời gian Stephen Hawking đã kết luận :

Tuy nhiên, nếu chúng ta khám phá được một lý thuyết hoàn chỉnh, rồi ra nó phải có thể hiểu được trên nguyên tắc rộng rãi bởi tất cả mọi người, không phải chỉ một vài khoa học gia. Rồi tất cả chúng ta, những triết gia, khoa học gia, và cả những người bình thường, sẽ có thể tham gia vào cuộc thảo luận câu hỏi tại sao chúng ta và vũ trụ lại hiện hữu như thế. Nếu chúng ta tìm được câu trả lời cho điều đó, đây sẽ là một chiến thắng tối hậu cho lý luận của con người — bởi vì khi đó chúng ta sẽ biết được ý nghĩ của Thượng Đế…

Những lý do mà Đạo của vật lý có khi bị cảm nhận như sự đe dọa nằm nơi sự hiểu sai phổ biến về tính chất đạo học. Trong cộng đồng khoa học, đạo học thường được nghĩ là một cái gì mơ hồ, ù mờ, tối tăm và hết sức phi khoa học. Khi thấy một lý thuyết đáng yêu của mình bị so sánh với hoạt động mơ hồ tối tăm đó, nhiều nhà vật lý cảm thấy bị đe dọa rất nhiều.

Cái nhìn sai lầm này về đạo học thật sự là rất đáng tiếc, vì nếu ta đọc những kinh sách cổ điển của các truyền thống đạo học, ta sẽ thấy những chứng thực tâm linh sâu xa không bao giờ được mô tả một cách mơ hồ tối tăm, mà ngược lại, nó luôn luôn liên hệ với sự sáng sủa. Hình tượng tiêu biểu mô tả thực chứng này có thể là dứt bỏ vô minh, cắt bỏ ảo giác, tâm thức sáng tỏ, nhận thức ánh sáng, hoàn toàn tỉnh giác – tất cả những cái đó nói về sự sáng tỏ. Thực chứng tâm linh lại đi ra khỏi mức độ suy luận trí thức, nên sự sáng tỏ là một thể loại khác, nhưng nó không có gì là mơ hồ hay tối tăm cả về các thực chứng này. Thực tế là từ giác ngộ mà chúng ta dùng để mô tả thời kỳ của Cartesi mới, thời kỳ tiếp cận khoa học ở châu Âu vào thế kỷ 18, là một trong những từ cổ nhất và được sử dụng rộng nhất để mô tả thực chứng tâm linh.

The Tao Of Physics

FritjCapra

Kinh Dịch, không ai chối cãi được là một trong những cuốn sách quan trọng nhất của văn học thế giới. Nó manh nha từ thời cổ đại huyền bí. Cho đến ngày hôm nay các nhà thông thái quan trọng nhất của Trung Quốc vẫn còn tìm hiểu về nó. Hầu như tất cả các tư tưởng lớn và quan trọng nhất của một lịch sử 3000 năm ở Trung Quốc, một phần là do cuốn sách này gợi mở, phần khác là muốn lý giải nó, để ta có thể yên tâm nói rằng, trong Kinh Dịch một nền văn minh triết già dặn nhất của ngàn năm đã được trình bày.

Richard Wilhelm

Nhà nghiên cứu tư tưởng Trung Quốc

Đóng góp lớn nhất trong ngành Vật lý Lý thuyết của Nhật Bản sau cuộc chiến tranh thế giới vừa qua có lẽ là dấu hiệu của một mối liên hệ nhất định giữa các tư tưởng phương Đông và nội dung triết học của lý thuyết lượng tử.

Werner Heisenberg.

Rất tiếc GS F.Capra và R.Wihelm không biết gì về Văn minh Việt Nam và Dịch lý Việt Nam; họ chỉ biết đến China ,Japan… ! Nhưng dù sao họ cũng thấy được nhu cầu quan trọng của Trí tri Ý và mối tương quan bất khả phân giữa Tâm thức và Vật chất .

Vũ Trụ học và Dịch Lý Việt Nam

Dịch Lý Á đông ( Tầu , Nhật , Đại Hàn …) được thế giới khoa học biết đến như một kho tàng khổng lồ về ý nghĩa và nội dung cùng với Hình đồ và Ngôn từ khó hiểu nhưng man mác những ý nghiã siêu tuyệt tạo sự hiếu kỳ thích thú đặc thù cho các Nhà Khoa học nghiên cứu . Pho sách của Chu Hy được Khổng Tử san định là một trong những kho tàng này .

Riêng đối với người Việt Nam ; có thể nói Dịch Lý đến từ hai nguồn

1. Nguồn thứ 1 : Từ giới kinh điển khoa bảng thời Phong kiến , chịu ảnh hưởng rất nhiều của phương Bắc Trung Hoa với Tứ Thư Ngũ Kinh và không phổ biến trong giới bình dân .

2. Nguồn thứ 2 : Từ Văn hoá Ẩn tàng truyền tụng Lý dịch trong Dân gian ; Ngôn từ của Người Việt tràn đầy Âm Dương Lý độc đáo bằng Văn chương truyền khẩu bất đắc dĩ phải có do mộng đồng hoá xâm lấn và khống chế lâu đời của người Trung Hoa khiến Văn Hoá Âm dương nằm sâu trong tiếng nói và trong Ca dao VN …Từ một thời trục đe doạ hạnh phúc nhân loại ,mâu thuẫn ,chết chóc, ngạo mạn đổ trên đầu các Dân tộc yếu kém nên các Dịch Lý Sĩ Việt Nam buộc phải nói lên tiếng nói bất khuất của Văn minh Việt Nam.

Dịch Lý Việt Nam khai mở Kỷ Nguyên Mới từ Nguồn thứ 2 này .

Dịch Lý Việt Nam không dài dòng kinh điển như các loại Dịch Lý quảng diễn ở các Quốc gia khác . Dịch Lý Việt Nam chỉ có một khám phá rất giản dị nhưng phi thường , một Nguyên Lý đơn sơ nhưng huyền biến , một công thức mộc mạc nhưng là quyền năng của Vũ Trụ ; Công thức của Luật Biến Hoá đó là :

CÁI MỚI = CÁI CŨ + CÁI HƠI KHÁC

Nói cách khác đó là :          YẾU LÝ ĐỒNG NHI DỊ

Và ta phát biểu : Cái mới là Cái giống mà hơi khác với Cái cũ .

Vâng :

1. Yếu Lý Đồng Nhi Dị giải thích tại sao từ Vô cực lại thành Thái Cực .Chỉ là vì Lý trí đã nhận thức Vạn vật đều Biến Hoá Biến đổi Biến động , khi biết có KHÔNG là đã có CÁI KHÔNG , cái Không vừa có mang hình ảnh Giống mà hơi khác với cái Không cũ ; vậy Thái cực chính là bộ mặt mới cuả Vô cực giống mà hơi khác Vô cực ; Chính ngay cái không điểm thời điểm của cái Điểm Kỳ Dị mà các Nhà Khoa Học ngày nay với Lý Thuyết BIG BANG đã vận dụng chính Tri Tri Ý và kiến thức Khoa học của mình để chứng minh rằng Vụ nổ Lớn khởi đầu tạo ra Vũ Trụ có Không gian vô cùng nhỏ và thời gian là 10-43 Sec ( không phảy 42 con số không sau không phảy ) Đỉểm Kỳ Dị chính là bộ mặt mới của cái Không ban đầu . Sự Biến Hoá mầu nhiệm này là có thật và còn nhanh hơn cả thời gian 10-43 Sec nhiều lần so với chính lý trí con người một tiểu vũ trụ cảm nhận được

2. Cũng chính nhờ cái lý lẽ giống mà hơi khác này chúng ta thấy ngay một Hiện hữu hay một cái Thành ra nào đó đều có trong nó cái giống mà hơi khác với cái trước nó ; điều này đúng ở khắp mọi nơi mọi lúc bất kể không gian thời gian ( không thời gian) ; từ đó để neo ý Cổ nhân bèn vẽ Hình Đồ Thái Cực ; nhưng chưa đủ diễn tả ý nghiã Giống Mà Hơi Khác của một Hoá Thành lập tức tức thời Biến Hoá Biến đổi như thế nào Cổ nhân lại vẽ thử một Vạch ; cái vạch này lại quá lớn ! quá quá quá nhiều những điểm giống mà hơi khác với điểm khởi đầu …trụ thần lại Cổ nhân bèn vẽ Một Gạch liền ,Một Gạch đứt nhưng phải neo theo ý nghiã biến ra cái giống mà hơi khác trong một không thời gian cực ngắn . Danh neo ý gọi là Âm Dương Lưỡng Nghi

3. Một vấn nạn kế tiếp là Công Thức Hoá Thành cho biết

CÁI MỚI = CÁI CŨ + CÁI HƠI KHÁC

phải bao hàm các ý nghiã :

· Thứ Nhất là phải đồng thời thể hiện được sự tương tác giao hoán qua lại của Âm Dương Cũ Mới nếu không thì không có biến hoá ; Sự Tương tác giao hoán cho ta Lý tính đối đối kháng kháng , động tĩnh tĩnh động , bị được sinh sinh khắc khắc, tuần tự trật tự .

· Thứ Hai trong Một Thể Hiện hữu Hoá thành ấy đồng thời phải thoả mãn là trong nó buộc phải có cả 3 cái : cái cũ, cái mới ,cái hơi khác lập tức tức thời .

4. Từ Ý nghiã thứ nhất tạo ra Lý tính hay Thần tính sinh động : Danh gọi là TỨ TƯỢNG

5. Từ Ý nghiã thứ hai tạo ra Một Hoá Thành có 3 Gạch .Danh gọi là BÁT QUÁI

6. Từ đây mỗi Quái trong Bát Quái đã trọn vẹn mang đầy đủ ý nghiã của một Hoá Thành , Bát quái đại diện cho vạn loại Hoá thành , 8 loại Hoá thành ẩn trong nó đầy đủ ý ,lý ,nghiã của Yếu Lý Đồng Nhi Dị . Các loại chúng sinh hoá thành này mang theo ý lý nghiã của mình để giao hoán đối đãi tạo ra 64 TƯỢNG tình ý tình lý trùng khắp trong Vũ trụ Vạn vật .

VIỆT NAM DỊCH LÝ HỘI

Phân Hội Đức Quốc

Đỉnh Cấu 21-05 Mậu Tý

Khoa Học Dự Báo

Posted in Dich Lý Báo Tin by vndichlyhoi on June 15, 2008


Hay Dịch Lý Báo Tin

Vấn đề Dự báo thường được dùng dưới nhiều danh từ khác nhau : Dự đoán , Tiên đoán , Quyết đoán … Và để thực thi Sự việc này con ngườI cần có những điều kiện khả dĩ mang tính Khoa học Khách quan ; nó tuỳ thuộc vào Trí tri Ý thức được Tu tập rèn luyện của mỗi con người . Ở đây tạm liệt kê những Điều kiện cho một Dự đoán nghiêm túc nhất :

1.- Xác định Dữ kiện trong một Phạm vi Tình Lý nào đó .

2.- Quan sát , nhận xét Dữ kiện cùng với thời động và cơ động .

3.- Xử dụng một Phương pháp chính lý toàn diện và chính xácở mọi nơi mọi lúc bất kể không thời gian .

Để đáp ứng những Điều kiện nêu trên buộc Trí Tri Ý của Con người phải Tìm đến những gì Tận cùng của nó ; nghiã là phải biết Thắc mắc , phải biết Truy nguyên hay Hoàn nguyên để giải đáp cho chuỗi thắc mắc tại sao ấy ; bởi vì Văn bất tận Ngôn ; Ngôn bất tận Ý , Ý bất tận cùng kỳ Lý .

Vậy Lý ấy là Lý lẽ nào mà tự thân nó lại đúng ở khắp mọi nơi mọi lúc ,lạinhư nhiên tự nhiên không khiêm cưỡng cho Trí Tri Ý Thức ?

Văn minh Khoa học ngày nay cũng chưa thể thoả mãn những điều kiện này !

Văn minh Cổ Đại cũng quá nhiều dị biệt hay mai một chẳng hạn như :

* Đông Y Học thật khó trả lời với câu hỏi Ý Lý căn cứ vào Ngũ Hành ! Vậy Ngũ hành từ đâu mà có ? Tại sao có ?

* Tử Vi Học căn cứ vào Các Sao an vị , Thiên bàn Điạ bàn … ; Tại sao có các sao , cách biến thông ý nghiã các sao theo phương pháp nào , quy luật nào ? Tại sao có 12 cung ? Tại sao có Lục Thập Hoa Giáp ? Tại sao mỗi sao có tính Ngũ hành ? v.v…

* Bói Dịch cũng vậy ; Tại sao có Thái cực ,Lưỡng Nghi , Tứ tượng,Bát Quái ,64 Tượng ? Căn cứ và cách biến hoá lý lẽ biến hoá nào ? v.v…

Tất cả những Vấn nạn trên Dịch Lý Việt Nam phải giải quyết và đã giải quyết ; Hội Dịch Lý Việt Nam đã khai mở Kỷ Nguyên Mới khởi từ năm 1965 để Đại Chúng Hoá Văn Minh Dịch Lý Việt Nam .

VIỆT NAM DỊCH LÝ HỘI

Phân Hội Đức Quốc kính cáo .

TẠI SAO HỌC DỊCH LÝ VIỆT NAM ?

    1. Thắc mắc Tại sao là nguyên tắc khởi đầu của Dịch Lý Việt Nam .
      • Con người Dựa vào chính Trí óc , Giác quan của mìnhđể nhận biết Vạn vật chung quanh mìnhvà luôn luônthắc mắc , Sự thắc mắc đã khởi từthuở sơ sinh .
      • Thắc mắc và biết thắc mắc là đông lực phát triển Tri thức ,thành quả của một nền Văn minhlàkết quả chung góp của nhiều nhân tố biết Thắc mắc .
      • Nhờ có Thắc mắc con người biết khám phá ,biết Đặt tên,biết kiểm nghiệm , biết diễn tả , biếtquy kết ,biết trao đổi ,biết đồng ý , biết phản đối ,…Biểu tượng , Chữ viết ,Lý thuyết , Triết thuyết … khởi từ đó .
    2. Vậy Con người trong quan điểm Dịch Lý như thế nào ?
      • Con người là một hiện thực sống động có Trí tri riêng của nóbiết Thắc mắc về chính nó và mọi thứ loạichung quanh nó .
      • Con người Thắc mắc để tự thấy mình đang dùng chính Lý Trícủa mình để suy tư ,để tự giải đáp dù giải được hay không được ! Ta không thể phủ nhận cái tôi có Lý Trí đã đang và mãi biết thắc mắc , Lý trí lúc mờ lúc tỏ ,lúc u tối lúc siêu tuyệt linh diệu .
      • Con người biết dụng Lý trí chính là lúc nó bắt đầu Truy Nguyên Lý Học , Lý trí biến hóa khôn cùng không hình không ảnh nhưng ta lại khu xử được nó từng giây từng ngày .
      • Như vậy con người có trong nó Thần thức và Đức Thần minh biến đổi biến hoá bình đẳng và như nhiên giống như muôn loài trong Vũ trụ sống động . Thực ra Thần thức trực ngự ở Trí Tri Ýcòn Đức Thần Minh là phần Âm ẩn tàng so với Thần Thức , Đó là Trí Tri Ý Cơ Cấu .
      • Thì ra Con người là một Hoá Thành siêu hợp Giữa Hữu thể Vật chất và Siêu thể Tinh Thầncả hai không thể chia tách , cả HAI là MỘT , Một Âm một Dương cùng lúc chung cùng bất khả phân cùng với cái Hoá thành biến đổi lập tức thời liên tụcliên lỉthành cái Thứ Ba giống mà hơi khác với cái trước nó ; nói cách khác có không thời gian can dự thì Cái tôi hôm nay giống mà hơi khác với cái tôi hôm qua , hay xa hơn cái tôi lúc10 tuối giống mà hơi khác với cái tôi 20 Tuổi hoặc quá quá khác với cái tôi năm 60 tuổi…nhưng tất cả chỉ là một chuỗi giống mà hơi khác với cái trước nó ! Đó là Luật Biến Hóatuân thủ Yếu Lý Biến Hoá Đồng Nhi Dị .
      • Con người cùng Vạn vật trong Vũ trụ , Tự Do Động Tĩnh ,Tĩnh Động trong mộtQuy Luật Động Tĩnh Sống Động .
      • Con người và Vạn loại trong Vũ Trụthời nay nay thời chỉ làSựKết tinh củamuôn thuở Nhân loại và Vạn hữu. Đó là Luật Cấu Tạo Hoá Thành. Cho nên dù muốn dù không Con người và Vạn Hữu đãvàđang thành , đã và đang sống động linh hoạtnhịp nhàng với Luật Thiên Địa Tuần Hoàn , Sinh sinh Diệt diệt ,Tuần tự Trật tự muôn đời và mãi mãi.
    3. Con người với Tri Tri Cơ cấu đã đặt têncho mình và vạn hữuthế nào ? Tại sao phải đặt tên ? Theo Lý nào để Đặt tên ?
      • Vạn vật tự nó vốn không tên , nó chỉ là nó một Biến Hoá Hoá thành của Vũ Trụ đúng như luật Cấu tạo Hoá thành biến hoá biến đổi như nhiên .
      • Con người vì nhu cầu truyền thông đã tự đặt tên cho mình và cho vạn vật .Việc Đặt tên hay Định danh này là do con người làm cho vạn hữu mang danh mang tánh.
      • Dịch Lý không xét quá trình lịch sử của danh tánh vì nó thuộc phạm trù Ngôn ngữ học ; mà là truy tìm lý lẽ của Danh tánh , nghiệm xét Tiền nhânđã đặt tên theo nguyên lý nào , lý lẽ nào ? Và dĩ nhiên không bị lệ thuộc vào hình thức ký tự của Ngôn ngữkhi truy tầm Ý Lý của Danh Lý .
      • Lý Định Danh có diễn tiến như sau :

Khởi từ Ý thức con người khi quan sát ,cọ sát với vạn hữu đã và đang biến hoá hoá thànhgiống giống khác khác cần phân biện .

Nẩy sinh Ý định muốntượng hình hài thanh ( vẽ ranói hay viết ra ) để truyền thông .

Trụ thần để so sánh phạm vi , phân biện tình ý , so sánh cái cái giống cái hơi khác , nghiã là tìm cái Lý cho Sự Lý cần truyền đạt : đó là Ý Lý.

Ý Thức + Ý định = Ý Tưởng.

Ý Tưởng + Ý Lý = Danh Lý

Người học Dịch Lývì thế không bám chết vào Danh từ ,Ngôn Từ mà phải vượt trên nó để tìm Danh Lý của muôn vật . Hiểu chết nghiã mộtngôn từthì khó mà Cảm thông được với Thiên địavũ trụVô Hữu ; là tự dìm vào chốn mê lầm cố chấp .

Danh được gọi là Chí lý ( Danh Lý) phải có cái giống mà hơi khác nhau làm căn bản bổ nghiã cho nhau , ban nghiã lý cho nhau trong Cái NHẤT LÝ .

  • Câu trả lời tại sao ?
    • Chính vìThắc mắc và muốn thắc mắc đến tận cùng không bị khiêm cưỡng áp đặt nênngười có trí luôn luôn muốn tự mình truy tìm Chân lý.
    • Chân lý Không cần tìm ở đâu xa mà tìm ngay chính con người ; xử dụng hành trang tuyệt diệu nhấtlà chínhTrí Tri của mình: Trí Tri Ý Cơ Cấu .
    • Chính nhờ Trí Tri Ý Cơ Cấu Tiền Nhân đã Khám phá Lý Dịch ; neo ý Lý Dịch bắng Hình Đồ Thái cực Vô Tự Vô Thanh .
    • Hội Dịch Lý Việt Nam từ năm 1965 đã khai mở con đường để ai ai cũng có thể qua được ngưỡng cửa Dịch Lý . Một Kỷ Nguyên Mới của Văn Minh Việt Nam .
    • Xin các Bạn hữu duyên hãy liên lạc với chúng tôi .


VIỆT NAM DỊCH LÝ HỘI

Phân Hội Đức Quốc

vndichlyhoi@yahoo.com

Tagged with: